Trần Đình Túc (1816-1899) |
Hiệp
Biện Đại Học Sĩ Trần Đình Túc (1816 – 1899) người làng Hà Trung, Huyện Gio
Linh, Tỉnh Quảng Trị, đỗ cử nhân năm 1842, có tài ngoại giao, làm quan trong
giai đoạn đất nước bị họa xâm lăng. Quân
dân thất bại liên miên trước vũ khí tối tân của thực dân Pháp, Ông là một trong
những đại thần có trọng trách phải đàm phán với quân xâm lược.
Một
chuyện nhỏ, có ghi trong gia phả dòng họ Trần Đình : Năm 1883, ông Trần Đình
Túc, khâm sai đại thần, đại diện cho triều Nguyễn đi ký hòa ước với Pháp tại Hà
Nội. Hòa ước này có 27 khoản, trong đó có khoản 1 đại ý: "Tất cả các nước
muốn giao thương với nước Nam thì phải được sự đồng ý của Chính phủ Pháp".
Đọc xong, chưa ký, ông Túc có ý kiến, xin sửa lại thêm: "Tất cả các nước
(kể cả Trung Quốc) muốn giao thương với nước Nam…".
Phía
Pháp thấy không có gì trở ngại nên đồng ý sửa đổi. Thế nhưng, chính vì việc mở
ngoặc thêm như vậy nên sau khi hòa ước được ký thì rắc rối cho Pháp. Trung Quốc
cho rằng: Pháp chỉ đích danh Trung Quốc, muốn gây hấn với Trung Quốc. Và tinh
thần bài Pháp nổi lên ở Trung Quốc mạnh mẽ. Âu đó cũng là cái tài khéo léo,
thâm thúy của một nhà nho làm ngoại giao.
NonNuoc
BinhKhe giới thiệu Tự sự của ông, nguyên tác bằng chữ Nôm, bản dịch do Lão nông
thi sĩ Linh Đàn chuyển cho, có đính kèm Tiểu sử của Ngài Hiệp Biện do cháu 5 đời
của cụ là Trần Đình Tài chấp bút.
TỰ SỰ
Hiệp
Biện Đại Học Sĩ TRẦN ĐÌNH TÚC
Nay
mừng Năm cũ đã qua
Thung
dung mới kể nôm na vài lời
Đã
sinh ra đứng (đấng) làm trai
Ở sao
cho xứng những lời dạy khuyên
Tam
xuân tất cả chưa đền
Mười
ân đã mất ba nguyền lại vương
Tình
kia hiếu nọ đôi đường
Ơn bằng
trời đất nghĩa dường núi sông
Tội
riêng như đá chất chồng
Niềm
chung nghĩ đến hãi hùng xiết bao
Thung
đường tuổi hạc càng cao
Mười
đời trâm hốt(a) quang hào hiển vinh
Đôi
phen trọng trấn Long Thành
Nhờ
ơn chín bệ(b) thỏa tình bốn phương
Thỉnh
hữu lũy sớ liên chương
Chín
tầng(b) trên cũng rộng thương tôi già
Từ thành
thị, giã phồn hoa
Tạ
Nùng Sơn, biệt Nhị Hà lui xe
Từ
đây gió huệ đưa che
Làng
nhà hơn tháng phút về đến nơi
Người
tiếp rước kẻ khuyên mời
Những
câu thanh cát những lời hàn huyên
Tiệc
nầy thân thích dưới trên
Chỉ
Xuân Kinh(c) lại tách miền xa xăm
Đồng
liêu tay bắt tay cầm
Chen
vai hàng lệ sang sân lạy quỳ
Chờ
cho muôn đội hàng uy
Tăng
gia phẩm cấp sử ghi tiếng vàng
Cát
nhân thiên tướng ngự ban
Nóc
mưu đầu đội thanh nhàn chân lui
Bàn
Môn cây cỏ đua tươi
Trăng
Hương Bình gió Ứng Đôi đón chào
Mừng
mừng rỡ rỡ xinh sao
Chắt
reo trong sảnh, cháu chào ngoài sân
Thảnh
thơi bỏ lúc phong trần
Vườn
Xuân một thuở - bản Xuân muôn ngày
Cầm
đàn cầm độ đưa tay
Tiệc
vui thôn ấp, lộc đầy đỉnh chung
“Một
đời được mấy anh hùng”
Kìa
nhà Bùi Độ(d) - nọ cung Hàn Kỳ(e)
Nền
văn học món cầm thi
Trước
so Văn Cử (f), sau bì Tạ An(g)
Cổ
nhân vầy tiệc truy hoan
Đàn
thông phách suối tơ vàng thảnh thơi
Công
tu cùng nặng hai vai
Anh
khen em hiếu em thời anh trung
Bút
nghiên về với xóm làng
Sớm
hôm cần mẫn điểm trang ruộng đồng
Bạn
bè cùng với lão nông
Đào
sông ngăn đập thỏa lòng bấy nay
Dạy
con cháu - nhắc tớ đầy
Đứa
chèn hói nọ, đứa cày ruộng kia
Tiếng
chim thánh thót quanh hè
Cá
tung tăng nhảy dưới khe lững lờ
La
Ông lụm cụm chào thưa
Ruộng
xưa ta đắp bây giờ đã nên
Hơn
năm trăm mẫu thành điền
Công
dân mọn mọn, nhờ quyền cao cao
Xin
dâng dưỡng lão chốn nào
Kẻo
lòng trên dưới ước ao những ngày
Biết
tình cố cựu xưa nay
Ơn
Vua ban cấp lộc đầy chung thân(h)
Chi
phiền của lính công dân
Lãnh
phần ruộng ấy xin dâng lại Làng.
Hội
Xuân mát mẻ vừa sang
Trúc
reo tiếng hát đào ran giọng cười
Nước
Hương Bình vẫn trôi xuôi
Cá
tôm luống những đượm mùi quê hương
Tóc
râu ngoài độ điểm sương
Phơ
phơ đầu bạc sắp sang bát tuần
Hỏi
ai còn mấy mùa xuân
Hỏi
duyên kỳ ngộ Châu Trần mấy khi
Lao
nhân trời đã dành chia
Ngửa
nghiêng với sách mệt mề theo bông
Duyên
cá nước - hội mây rồng
Phút
đâu lại thấy tơ lòng dục đôn(i)
Một
lời dặn khắp cháu con
Guốc
tre gác lại cửa son bước vào(k)
Quên
mình ra vẻ trâm đào
Ngập
ngừng bước thấp bước cao lạy quỳ
Lệnh
truyền đâu dám suy bì
Bắc
Nam là phận truy tùy đã quen
Chín
tầng đã nhớ đến tên
Một
lòng xin quyết muôn truyền họa may
Hỏa
cơ thuyền khói xa bay
Theo
chân một trẻ vài ngày đến nơi
Công
đường gươm dáo sáng ngời
Bốn
phương súng đạn một trời lầm than
Cờ
Đen Vĩnh Phúc kéo sang (l)
Áo
ào gió thổi bụi đường chiến chinh
Thương
thay vận nước dân mình
Đông
tây hai ngả hãm thành Thăng Long
Đòi
phen lưỡng hổ tranh hùng
Thứ
dân vô tội, Hoàng cung rối bời
Triều
Thần còn chỉ một hai
Phụng
vâng chiếu chỉ, đơn sai đàm nào
Nghĩ
mình Khâm mạng trời cao
Trong
cơn nước lửa liệu sao vuông tròn
Thương
người lòng dạ sắt son
Cổ
thành tuẩn tiết sữ còn lưu danh
Luân
hồi sanh tử tử sanh
Phận
mình đâu trót dân tình sao đây?
Quân
Tàu hạ sát tướng Tây
Trên
Ô Cầu Giấy máu đầy thịt phơi(l)
Một
mình chống chọi đôi nơi
Là
đem dân chúng chôn vùi thảm thê
Thiệt
hơn phải chịu một bề
Cửu
trùng đã có châu phê nghị hòa
Nước
nhà khỏi bước phong ba
Thanh
bình cho đỡ phiền hà lê dân
Bắc
Hà giao lại quan quân
Kinh
kỳ trở gót, trước sân lạy quỳ
Vua
ban “Xữ thế tùy nghi”
Lão
lai tài tận xin về cố hương
Hồ Sơn
ngào ngạt đua hương
Sử
xanh ghi lại mấy chương tâm tình
Nợ nần
từ buổi thư sinh
Trân
cam từ buổi tóc xanh đã từng
Đỉnh
chung đâu dám phụ lòng
Điền
viên vui thú Ngư Ông tháng ngày
Rôi
đây thế cuộc vần xoay
Một
lòng chung thủy dở hay khôn lường
Đời
người có lúc sang trang
Chuyện
đời còn mãi rõ ràng trước sau
Dặn
dò con cháu đôi câu
Hiếu
trung tiết hạnh khắc sâu trong lòng./.
------------------------------------------
a)
Trâm Hốt = Cái trâm cài đầu, và cái hốt cầm tay, người
quyền quý, - ngày xưa thi đậu tiến sĩ
hay làm đến Đường quan mới có trâm hốt (Hán Việt Từ Điển - Đào Duy Anh)
b)
Chín bệ, chín tầng = Cửu Trùng là vua
c)
Xuân Kinh = Kinh Thành Phú Xuân = là Huế
d)
Bùi Độ 裴度 (765-839) tự Trung Lập 中立,
người Văn Hy, Hà Đông (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Đỗ tiến sĩ năm
Trinh Nguyên, được bổ làm Giám sát ngự sử, sau được thăng làm Ngự sử trung thừa
rồi làm đến chức Tể tướng. Năm Nguyên Hoà thứ 12 (817), Ngô Nguyên Tế chiếm giữ
Thái Châu (Hoài Tây) nổi loạn chống triều đình. Tháng bảy, ông được phong làm
Hoài Tây tuyên uý chiêu thảo sứ đi đánh dẹp. Sau khi dẹp được loạn, ông được
phong tước Tấn quốc công, về sau hoạn quan chuyên quyền, ông từ quan về ở Lạc
Dương. Khi mất, ông được phong thuỵ là Văn Trung. Trong "Toàn Đường
thi" hiện còn mười tám bài thơ của ông.
e) +
f) chưa tim ra điển tích (NNBK : có thể Hàn Kỳ là tể
tướng triều Tống Anh Tông và Tống Thần Tông, đồng liêu với Tư Mã Quang, Phạm Trọng Yêm, còn Văn Cử có lẽ là Thừa tướng Văn Thiên Tường đời Nam Tống chăng)
(g) Tạ
An người đời Đông Tấn (265-420) là một nhà thế phiệt trâm anh, lúc thư nhàn thường
hay chở rượu đến Đông Sơn, cùng các kỹ nữ hòa nhạc vui chơi, lúc hưng thịnh
chim én về làm tổ đầy nhà, lúc suy vong chim én bay đi hết, để phân biệt người
sang kẻ hèn. Họ Vương, họ Tạ thời ấy thường mặc áo đen, nên người đời nói cửa
ngõ của Vương, Tạ là "Ô - Y hạng" = là hẻm áo đen, sau nầy có bài thơ
Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích
Chu
Tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền
yến,
Phi nhập tầm thường bách
tính gia.
h) Cấp
ruộng đất để làm hưu bổng đến hết đời. nhưng rộng đất ấy Ông đem chia cho dân
làng.
i) Dục
Đôn = Tiếng Việt cổ = cõi lòng thấy thúc dục, và đôn đốc hối hả.
k)
Đoạn nầy tác giả tả lúc hồi hưu ở Bàn Môn, tỉnh Thừa Thiên, nhưng vua triệu hồi
nhân lệnh mới
l)
Lưu Vĩnh Phúc : Chủ tướng giặc khách quân
Cờ Đen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét