Giỗ
quải là chuyện đặc thù của người phương Đông, của người Việt Nam ta. Thử hỏi
trong đời có mấy ai không đi ăn giỗ, không có tổ chức đám giỗ trong nhà. Giỗ là
ngày tưởng niệm người thân trong gia đình đã quá vãng mà làm sao không có được
!? Có người cho rằng dân phương Tây coi trọng ngày sinh, còn dân phương Đông lại
coi trọng ngày mất của một đời người. Tại sao như vậy chỉ có những bậc hiền triết
mới giải thích giúp, còn cỡ mình thường thường chỉ “năm ba chữ vẩn vơ”, chỉ biết
quải giỗ là tập quán lâu đời mà ông cha ta đã để lại, cứ đến ngày người thân đã
mất là tập trung anh em, họ hàng, bà con cùng gặp với nhau.
Hẳn
nhiên bà con cùng gặp với nhau có thể là để cùng nhắc với nhau về phẩm hạnh, về
chuyện đã làm của người đã khuất, có thể là nhân đó mà bàn về chuyện giữ gìn
gia phong, họ tộc. Nhưng ngày gặp nhau đó, đã quây quần tụ hội lại với nhau thì
không thể thiếu chuyện … ăn. Chuyện ăn mới là chuyện hàng đầu của con người. “Trời đánh cũng phải tránh bữa ăn”. Chả vậy
mà sau từ Ăn trong ngôn ngữ Việt, có quá nhiều từ đi kèm để diễn tả chuyện ăn.
Nào là Ăn như hổ lốn, Ăn như mèo mửa, Ăn ké, Ăn theo, Ăn trộm, Ăn cướp, Ăn cả
phân cả sắt thép, Ăn bẩn, Ăn quịt, Ăn hại, Ăn gian … Ăn Ăn Ăn gì đấy mà không đủ
sức để liệt kê ra ! Cũng từ chuyện ăn mà Ăn giỗ cũng mang nhiều hệ lụy thể hiện
cái con trong con người.
Vì
gặp nhau không thể thiếu chuyện ăn nên ngày xưa mấy cụ đã định ra “hương hỏa”.
Để có điều kiện nhang khói, đủ điều kiện tổ chức lâu dài cho ngày gặp nhau, các
cụ dành riêng một gia sản có thể sinh ra lợi tức hằng năm hồi đó là ruộng đất mà
giao cho người “thừa tự”, dĩ nhiên là con trai trưởng trong gia đình, là cháu đích
tôn của một tộc họ. Anh trai Cả phải lo phụng tự, phải lo gìn giữ giềng mối cho
gia đình cho họ tộc. Ai đi đâu thì đi chớ anh chàng thừa tự nầy không thể bỏ xứ,
bỏ họ tộc mà đi được. Có phải vì vậy chăng mà thời tiến về phương Nam, chỉ có
anh thứ hai, thứ ba mới ly hương đến khẩn hoang nơi xứ lạ. Tiến vô Nam không thể
có anh Cả ra đi, nên thế thứ lớn nhất trong Trung, trong Nam hiện nay mới gọi với
nhau là anh Hai chớ không phải là anh Cả !?
Xem
vậy trọng trách của anh chàng thừa tự phải lo gìn giữ giềng mối cho gia đình
cho họ tộc, trong đó không thể thiếu là lo chuyện Ăn Giỗ. Các cụ ngày xưa có câu
: “Chồng là cái đó, Vợ là cái toi”.
Chồng phải đơm đó, phải làm ra của cải, Vợ phải là người biết gìn giữ của cải mà
chồng đã làm ra. Nhưng nhiều nàng dâu trưởng đã gìn giữ quá mức cần thiết, đã vặt
đầu nầy, vặt đầu kia, ngày Giỗ Họ lại đi giấu món nầy, giếm món nọ. “Miếng ăn là miếng tồi tàn”, họ hàng sinh
ra chuyện đá thúng đụng nia cũng chỉ vì chuyện Ăn giỗ. Thực ra ngày xưa các cụ có
khuyên với nhau “Liệu cơm mà gắp mắm”, gặp nhau chỉ cần đĩa dưa muối với chén mắm
cà. Thậm chí các cụ còn sắp xếp với nhau “Góp giỗ”, “Gửi giỗ”, anh em trong nhà
chung tay lại với nhau lo ngày giỗ quải chớ đâu phải chỉ riêng người được Ăn hương
hỏa.
Nhưng
kể cũng lạ, từ xưa tới nay cái hợm hĩnh của con người trong chuyện Ăn giỗ không
có chút gì giống như lời khuyên của cha ông. Không ít người quan niệm Giỗ là phải
mâm cao cỗ đầy mới tỏ là có hiếu nghĩa (hic !). Người xưa kể lại chuyện Góp Giỗ
phải mua đủ mười voi về làm cỗ chớ tám con chả bỏ bèn gì. Rồi, thật là “Mười voi chẳng bằng bát nước xáo”. Ngày
nay không ít người đã quan niệm giỗ quải là chuyện trả nợ miệng (hic !). Đi Ăn
giỗ là để tỏ cho thiên hạ biết mối quan hệ thân thiết của ta với nhà có đám giỗ.
Bày giỗ, mời cỗ là để gặp nhau “dzô dzô”, nhân lễ giỗ hậu hĩ mà có của đút lót
trá hình, chẳng màng đến người đã khuất có yên lòng ở cõi khác hay không. Đúng
là :
Khi sống thì chẳng cho ăn
Đến khi chết xuống làm văn tế
ruồi
Nhưng
nói cho cùng, mọi lễ nghi cho người đã khuất đều là để tác động đến người hiện
còn ở dương thế. Nếu giỗ mà có mâm cao cỗ đầy, thật ra cũng là điều đáng mừng.
Ngày nay ta được ăn sung mặc sướng, sắm được mâm cao cỗ đầy, nghĩ lại mà thương
cho người đã khuất thuở sinh tiền gặp nhiều thiếu thốn, khó nhọc, còn phải chắt
chiu từng hạt gạo, mớ rau nuôi con khôn lớn, nuôi cháu thành danh. Tại sao bây
giờ với cha mẹ, ông bà may mắn hiện đang còn ở với chúng ta, ta không rót được
chén nước, không thả được cái mùng, chăm sóc từng miếng ăn, từng giấc ngủ cho
người đã già yếu bằng những cái gì mà hiện chúng ta có được … Tu tâm dưỡng tánh
làm người thì “Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ
cha kính mẹ mới là chân tu” … Trong những ngày giỗ quải, truyền tải được
cho con cháu, cho đời sau rõ ý nghĩa nầy là đã thực hiện được ý nghĩa đạo lý “hương
hỏa” của người xưa. Người xưa sống với tính cộng đồng “tứ đại đồng đường”, bốn đời
cùng ở chung trong một nhà. Để hiểu người xưa, hướng về cội nguồn, không thể không
lưu tâm đến tính cộng đồng của một gia tộc.
Lễ hội Đền Hùng năm 1904 |
Nói
đến giỗ quải trong một gia đình, cũng không thể không nhớ tới ngày giỗ ông Tổ của
dân tộc Việt. “Chim phải có tổ, người phải
có tông”. Các thị tộc xa xửa xa xưa với niềm tin thiêng liêng, sùng bái một
con vật, hoặc một loài cây, một đồ vật nào đó, coi đó là tổ tiên của thị tộc mình
(totem). Chưa rõ các nhà nghiên cứu đã đồng thuận tới đâu về việc xác định
totem của người Việt là cá sấu hay chim lạc, là rồng hay chim hay là tiên … Dù sao đi nữa cả nghìn năm qua dân Việt ta đều
cho quốc Tổ của ta là các Vua Hùng. Từ lâu trong dân gian truyền lại câu ca :
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười
tháng ba
Tấm
bia “Hùng Miếu Điển Lệ Bi” ở Đền Thượng trên núi Hùng, lập năm Khải Định thứ 8
(1923) đã cho biết các triều đại xưa tế lễ các Vua Hùng vào mùa thu, là mùa có
các lễ hội có tính lịch sử cổ xưa. Năm Đinh Tỵ niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917),
bộ Lễ thuận theo tấu trình của Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc, ấn định ngày
mồng 10/3 âm lịch hằng năm (trước ngày giỗ Vua Hùng đời thứ 18 một ngày) làm ngày
quốc lễ, ngày cúng giỗ quốc tổ của dân tộc Việt. Xem ra lịch sử ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương chính thức hóa bằng luật đã gần được 100 năm. Mãi đến gần đây, ngày
02/4/2007, luật pháp CHXHCNVN mới nâng ngày 10/3 hằng năm thành ngày lễ lớn,
cho người lao động nghỉ lễ được hưởng nguyên lương.
Lễ hội Đền Hùng năm 1905 |
Cũng
nhờ từ đây, con cháu của 50 người con vượt đồi non phá rừng núi, khai rẫy nương,
con cháu của 50 người con dọc Trường sơn đi xứ Bắc, đi xứ Nam sau bao nhiêu năm
vật lộn với miếng ăn đã có lưu tâm hơn, có ý thức hơn về cội nguồn, về tiên tổ.
Nhưng cũng thật trớ trêu là khi đã có cái ăn cái mặc, ấm cật no cơm, sự thành tâm
của con cháu cho ngày giỗ Tổ đã không vượt qua được những lỗ hổng trong con người
mà phải bao đời mới bồi đắp nên vóc nên hình. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2008 xảy
ra sự cố lễ vật tiến cúng Đền Hùng bánh chưng nặng 2 tấn bị rữa và lên men, bánh
dầy 1 tấn phần lớn nhân bằng xốp. Năm 2010 lại xôn xao chuyện cúng tiến các Vua
Hùng chai rượu vodka khổng lồ dung tích 4000 lít, lễ vật dâng lên được diễn giải
với tâm niệm “phi tửu bất thành lễ”, không có rượu là không đúng lễ. Phải vậy
không (!?) Phải chăng chàng rể đã mua được mười voi về làm cỗ, hay là nàng dâu
hợm hĩnh khoe mẽ đã mượn ngày giỗ để quảng cáo thương hiệu (!?). Ấn đền Trần, rồi
mới đây loạn ấn đền Hùng, tiên tổ chắc cũng phải khóc ròng trước máu me mượn
danh để kiếm tiền của con cháu.
Chuyện
Giỗ quải cho người đã mất của người Việt là nhắc nhở cho người còn sống biết quây
quần đùm bọc lẫn nhau, nhắc nhở cháu con là uống nước phải biết nhớ nguồn, biết
kính trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Dâng hương trước bàn thờ phải nghiêm trang,
quần áo chỉnh tề là tỏ sự thành kính. Cỗ bàn cho ngày giỗ chỉ nén hương, chén nước
lạnh cũng đủ sự thành tâm. Giỗ quải dung dị, đơn giản là vậy, nhưng kệch cỡm của
đời thường đã biến dạng giỗ quải. Không riêng gì ngày xưa, mà ngay cả ở thời đại
ngày nay.
Hoài An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét