Khâm sai Trần Đình Túc (góc trái) trong lễ ký Hòa ước quý Mùi 1883 |
Tiểu Sử ngài
Hiệp Biện Đại Học Sĩ TRẦN ĐÌNH TÚC
Ngài
Tổ Thế hệ thứ 11 húy TRẦN ĐÌNH TÚC (1816 – 1899), thọ 84 tuổi. Người làng Hà
Trung, Huyện Gio Linh, Tỉnh Quảng Trị, làm quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Lễ Bộ Thượng
Thơ, Tước Lại An Tử, Thụy Văn Ý, thời vua Thiệu Trị, Tự Đức.
Trong
thời làm quan, đất nước gặp lúc có nhiều giặc giã rối ren, mặc dù có nhiều vị
quan chức tước cao hơn, nhưng khi gặp những sự việc khó khăn, Ngài được nhà vua
chỉ định đi trấn nhậm giải quyết, hay đi công cán nhiều nơi trong Nam, ngoài Bắc,
đi sứ Trung Quốc, Hồng Kông, giao tiếp với các phái đoàn Anh Quốc, Triều Tiên, cầm
đầu phái đoàn thương thuyết gay go với phái bộ Pháp, nhất là việc thương thuyết
lấy lại thành Hà Nội 2 lần bị thất thủ.
Gia
phả chép Ngài tính tình ôn hòa, trung thực, có tài ngoại giao, giao tiếp rộng
rãi, từng trải, luôn được Nhà Vua trao những sứ mạng khó khăn, nguy hiểm như được
cử đảm nhiệm chức Tổng đốc Hà Ninh để thương thuyết hết sức khó khăn và đầy
nguy hiểm với quân Pháp lấy lại 4 tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương bị
thất thủ lần thứ 1 trong khi viên chỉ huy Pháp là đại úy Francis Garnier bị
quân ta và quân Cờ đen phục kích giết chết. Đảm nhiệm Tổng đốc Nam Định để
thương thuyết đầy cam go lấy lại thành Hà Nội khi bị thất thủ lần thứ 2. Mỗi
khi thực hiện xong trọng trách, ổn định xong sự việc, Ngài đều trao lại nhiệm vụ
cho người kế tục đảm trách, xin về hưu dưỡng tuổi già, không tham quyền cố vị,
sống đời sống thuần khiết, thanh bạch.
Ngài
có những đề nghị mở mang như khai khẩn đất hoang tại Thừa Thiên và Quảng Trị,
tăng thêm ruộng đất cho dân; mở cửa giao thương thay vì bế quan tỏa cảng để có
tiền mua sắm máy móc, vũ khí, cho thanh niên du học để tiếp thu văn minh khoa học,
kỹ nghệ, cơ giới, canh tân đất nước; trao đổi kinh nghiệm với phái đoàn Triều
Tiên đồng hoàn cảnh nước nhỏ trước họa xâm lăng, lấn át của các cường quốc. Khi đi sứ Hương Cảng về, Ngài dâng sớ tâu vua
xin mở cửa biển Trà Lý thuộc tỉnh Nam Định nay là Thái Bình để mở mang việc
giao thương cho dân chúng và ngoại quốc vào buôn bán, nhất là với nước Anh để
làm thế quân bình ảnh hưởng giữa Anh và Pháp, tránh việc Pháp muốn sử dụng sức
mạnh quân sự độc quyền xâm chiếm đất nước, nhưng vua do dự đưa ra triều đình hội
nghị. Trong triều có nhiều vị quan chức tước cao hơn và có nhiều vị thủ cựu nên
đề nghị bị bác bỏ bất thành. Sử sách cũng có ghi rõ.
Ngài luôn tận tụy với đất nước, và cũng có những
đề nghị, kế sách đóng giữ những nơi hiểm yếu phòng thủ đất nước, có những đề
nghị được nhà vua nghe cho thực hiện, nhưng cũng có những đề nghị không được
nhà vua và triều thần chấp thuận ! Với
tuổi già, Ngài đã được vua cho nghỉ hưu trí ở tại làng Bàn Môn (tỉnh Thừa
Thiên). Sau khi vua Tự Đức băng hà đến
vua Hiệp Hòa lên ngôi, mặc dù các quan chức, các sĩ phu trong nước và dân chúng
đều dốc lòng đánh quân Pháp giữ gìn đất nước, nhưng vì vũ khí thô sơ, cổ điển
nên đều thất bại. Trong khi các nước Âu Châu với kỹ nghệ phát triển, vũ khí và
cơ giới tối tân, đua nhau đi chiếm thuộc địa khắp nơi, quân Pháp đã tăng cường
lực lượng, đánh chiếm toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh, đóng quân ở Hà Nội, Hải Phòng sẵn
sàng đánh chiếm Bắc Kỳ bất cứ lúc nào. Tại Trung Kỳ hải quân Pháp đánh chiếm cửa
bể Thuận An, cách kinh đô Huế vài chục cây số, tại Đà Nẵng chiến hạm Pháp và Bồ
Đào Nha nã đại bác bắn phá tan các chiến tuyến phòng thủ của ta. Tình hình quân
sự của ta bị yếu kém không chống nổi với vũ khí tối tân. Quân Pháp có thể đánh
chiếm kinh đô Huế như trở bàn tay. Trước tình thế nguy ngập, kinh thành bị uy
hiếp, vua phái một vị võ quan làm sứ giả, hỏa tốc triệu vời Ngài lập tức về chầu
vua theo lệnh “Lôi Lệ Phong Hành” nghĩa là nếu không đi thì sứ giả có quyền
chém đầu tại chỗ mang về !
Tại
kinh thành Huế, Toàn quyền Pháp Harmannd từ Hà Nội vào, tập họp binh tướng đưa
yêu sách triều đình Huế phải qua tòa Khâm Sứ Pháp hội nghị ký hòa ước nhận sự bảo
hộ của Pháp. Vì thế yếu không chống cự nổi, không còn cách nào khác, theo lệnh
vua và triều đình Ngài phải cùng phái đoàn triều đình ký Hiệp Ước Harmand chịu
nhận sự bảo hộ của Pháp, để hòa hoãn tránh việc can qua bại trận, núi xương
sông máu, tàn phá đất nước, giết hại sanh linh ! Một khúc quanh của lịch sử !!!
Vào
thế kỷ 19, thời kỳ Pháp đánh nước ta, nước Cao Miên và Ai Lao (Lào) cũng bị
Pháp chiếm, ngay cả nước lớn đất rộng, dân đông hơn trăm lần nước ta, lực lượng
mạnh hơn ta nhiều như Trung Hoa cũng bị các cường quốc kỹ nghệ Tây phương xâu
xé, cắt đất thuộc địa , phân chia tô giới trong nội địa. Ấn Độ là nước lớn thứ 2 cũng bị đô hộ của nước
Anh. Nước ta gặp lúc quốc vận không may,
nền văn minh còn sơ khai, chưa kịp thời phát triển, nên bị yếu kém, chứ không
phải dân và quan quân thời đó không có tinh thần tích cực chiến đấu !
Ngài
có để lại 2 câu đối ghi trong gia phổ :
Ấu nhi học tráng nhi hành, bất
như ý sự thường bát cửu
Hiếu ư gia trung ư quốc, kỷ
khuyết tâm tất hữu nhị tam
Tạm
dịch :
Nhỏ đi học lớn đi làm, việc
không vừa ý mình thường xảy ra 8, 9 .
Dù hiếu với nhà trung với nước,
nhưng kiểm điểm lại vẫn còn khuyết điểm 2, 3.
Ngài
có sáng tác Bộ Tích TIÊN SƠN CHỦ NHÂN TOÀN TẬP, gồm có : Thi, Văn, Sớ, Biểu,
Thơ Giản. Cộng tất cả 19 quyển để làm gia bảo. Có lẽ Ngài đã gởi gắm tâm tư vào
Bộ Tích này, và ghi lại những việc Ngài đã làm và đã trải qua trong thời buổi
giặc giã nhiễu nhương.
Bộ
sách này viết bằng chữ Nho để tại nhà thờ của Ngài tại làng Hà Trung, huyện Gio
Linh, tỉnh Quảng Trị. Rất tiếc nhà thờ đã bị đốt cháy năm 1947 trong thời gian
chiến tranh vừa qua với rất nhiều sách Hán văn về văn học, chánh trị, sử, địa,
sách thuốc, địa lý, toán học ; về võ bị có các sách binh thư, đồ trận ,võ nghệ.
do các vua Tàu tặng khi Ngài đi sứ Tàu. Sách vở rất nhiều như là một thư viện. Và ấn kiếm của Ngài thờ trong Nhà Thờ cũng bị
cháy tiêu hủy. - Bên cạnh ngôi Nhà Thờ này có ngôi Nhà Thờ
vuông 2 vài, l gian 2 chái cao lớn (con cháu gọi là Nhà Thờ Chi) do Ngài làm để
thờ Ngài Duệ Đức Hầu (Tổ Đời Thứ 9, Ngài gọi Ông Nội, trở xuống) cũng bị cháy hủy.
Kẻ
viết bài này thời niên thiếu đã từng được thấy ngôi Nhà Thờ của Ngài và còn nhớ
rõ trong tiềm thức : ngôi Nhà Thờ cột kèo bằng gỗ mít, có 4 vài, 3 gian và 2
chái, mái ngói, vách gạch, rất rộng rãi. Gian giữa thờ Ngài, gian bên hữu (phía
Đông) thờ Ngài Cố Hiệp Biện Đại Học Sĩ , Hộ Bộ Thượng Thư Lễ Môn Tử, đời thứ 12
(con của Ngài), gian bên tả (phíaTây) thờ quý vị Thúc Bá. Trong các tủ thờ đều
đựng đầy sách Hán văn. Và chái phía Tây chứa đầy những rương đài nắp hình khum
phía trên có 2 lỗ quai cho 2 quân lính khiêng gánh (di chuyển từ bên Tàu về) và
những kệ sách đầy ắp hằng pho sách.
Trong
những ngày giỗ, ngày Tết, tôi được theo Thân Phụ và các vị Thúc Phụ lau chùi
bàn thờ và quét dọn nhà Thờ. Thỉnh thoảng Ông Nội là vị quan hưu trí thường hay
lên Nhà Thờ, trải chiếu nằm đọc sách, tôi được hầu trà, có hỏi Ông Nội những
sách trong Nhà Thờ là những sách gì ?
Ông Nội cười và cho biết đều là những sách quý như đã nói trên. Ông nói
con cháu muốn học và nghiên cứu môn gì đều có sẵn hàng pho sách ở đây. Ông nói
ông đang coi về sách Địa lý. Ông còn nói mấy chục năm đọc sách nhưng ở đây có
nhiều sách ông chưa hề đọc tới !
Kho
tàng văn hóa của Nhà Thờ Ngài đã bị tiêu hủy, Bộ sách TIÊN SƠN do Ngài sáng tác
tưởng cũng đã bị thất truyền hoàn toàn !
Đọc Gia Phổ, thấy ghi là gia bảo nên thế hệ thứ 15, cháu 5 đời của Ngài
là TRẦN ĐÌNH TÀI có liên lạc hỏi quý chú bác bà con ở tại Nhà Thờ của Ngài ở
làng Bàn Môn (Truồi), huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, có lưu trữ bổn nào bộ
sách của Ngài không, nhưng không có. Lúc Ngài làm quan, giữ chức Dinh Điền Sứ,
Ngài có mở mang ruộng đất cho dân ở làng Bàn Môn, nên có 1 nhánh con cháu ở tại
đây và có Nhà Thờ thờ Ngài và Tiên Công của Ngài là Ngài TRƯNG TƯỜNG HẦU, Tổ đời
thứ 10
Ngũ đại tôn TRẦN ĐÌNH TÀI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét