Tôi muốn tách riêng để nói đôi điều
về Tây Sơn.
Ðây là nơi phát tích của Ba vua Tây
Sơn mà lẫy lừng nhất là Quang Trung hoàng đế. Ðất Tây sơn chạy dài từ thôn Phú
lạc, xã Bình thành đến tận suối Bèo, thôn Trường định, xã Bình hòa, quận Bình
khê. Ba anh em nhà Tây Sơn thuở nhỏ theo thân phụ là Nguyễn Phi Phúc đến cư ngụ
tại làng Phú lạc rồi sau di chuyển đến làng Kiên mỹ, dọc theo bờ bắc sông Côn.
Trên vùng này còn các di tích của ba anh em Tây Sơn: vườn Dinh nơi xưa kia là
nền nhà của gia đình Nguyễn Phi Phúc. Bến Trường Trầu là nơi mà thuở nhỏ ba anh
em Tây Sơn dùng thuyền nan phụ giúp thân sinh giao lưu buôn bán với thương lái
thượng du. Ðình Kiên mỹ bên ngoài là thờ thần nhưng bên trong âm thầm thờ cúng
Ba vua Tây Sơn. Ðịa điểm mà năm 1960 nhân dân địa phương xây điện Tây Sơn cũng
là di tích cũ nơi có đền thờ Ba vua Tây Sơn xây cất khiêm tốn theo kiểu xưa, náu
mình dưới bóng một cây me cổ thụ mà hàng năm vào ngày Rằm tháng 11 âm lịch dân
chúng địa phương mang lễ vật, quà bánh đến cúng kính. Vì thời cuộc và trải qua
thời gian dài mưa nắng đền thờ nhỏ hẹp này bị sụp đổ chỉ còn lại cái nền nhà,
một giếng nước xây bằng đá ong và cây me già cỗi. Xa xa phía sau điện là gò Ðá
Ðen, nơi nghĩa binh Tây Sơn thao luyện quân sĩ để mưu đồ nghiệp lớn. Trên dãy
Hoành sơn ở phía bờ nam sông Côn (xã Bình tường) tương truyền có ngôi mộ thân
phụ Ba vua Tây Sơn, và cũng là nơi ngày trước Nguyễn Nhạc đã nhận ấn kiếm do Trời
ban cho để dựng đế nghiệp.
Ðất Tây Sơn với địa giới nói trên có
người bảo đó là Tây Sơn hạ. Còn Tây Sơn thượng nằm trong lãnh địa quận An khê,
phía làng Thương an dưới chân đèo An khê, nơi có núi ông Bình là vùng căn cứ
của nhà Tây Sơn ẩn tập để chiêu hiền đãi sĩ, mãi mã chiêu binh mưu đồ đại sự.
Buổi ban đầu nghĩa binh phần lớn là người Thượng, lực lượng cung nỏ thiện chiến
quan trọng và đắc lực sau này.
Theo thiển ý, đừng nên phân chia
thượng hạ làm gì. Có thể hiểu đất Tây Sơn bao trùm cả lãnh thổ huyện Bình khê,
khởi đầu từ Phú lạc đến Trường định và phía bắc sông Côn, sau mở rộng sang phía
nam từ Hoành sơn đến Thủ thiện, lấy vùng đèo An khê làm mật khu hậu cứ. Từ đó
thanh thế nhà Tây Sơn lớn mạnh khắp Bình định và lẫy lừng cả nước qua các cuộc
bắc phạt nam chinh. Bởi vậy có thể gọi đất Bình khê là... đất Tây Sơn không có
gì là sai lầm (Dù vậy bây giờ đổi tên huyện Bình khê thành huyện Tây sơn lại là
chuyện khác, không phải ai cũng tán đồng - Lý do xác đáng có nhiều nhưng là
chuyện sẽ bàn ở mai sau).
Ðiện Tây Sơn được trùng tu năm 1960
theo ý kiến của thân hào nhân sĩ địa phương và sự chủ xướng của ông Hoàng Ðình
Giang là quận trưởng Bình Khê lúc bấy giờ. Ðiện xây dựng trên đền thờ cũ ở thôn
Kiên mỹ, xã Bình thành. Gian giữa thờ vua Quang Trung. Gian bên tả thờ hai vua
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và gian bên hữu thờ tướng tá bộ thuộc. Hai bên cửa vào
điện có câu đối:
Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích
Nam quốc sơn hà ký võ công
Ở trước sân điện có dựng bia khắc bài văn kể sự tích và công đức nhà Tây Sơn, nổi bật là Quang Trung Hoàng đế. Bài văn bia do nhà thơ Quách Tấn phụng thảo. Nghe nói sau 30-4-1975 bia này đã bị trát xi măng lên. (Hồi ký của ông Nguyễn Hiến Lê có nói đến việc này)
Từ 1960 đến 1975 hàng năm vào ngày
Tết Nguyên đán, quận Bình khê tổ chức lễ kỷ niệm chiến thắng Ðống Ða rất trọng
thể. Chiều hôm trước lễ tế được cử hành tại điện theo nghi thức cổ truyền. Sáng
hôm sau quần chúng tập họp rất đông đảo trước sân điện và cả xung quanh để dự
lễ theo hình thức mới, nghe nhắc nhở lịch sử và ý nghĩa chiến thắng Ðống Ða...
Có năm tổ chúc qui mô lớn, có diễn lại trận Ðống Ða, diễn hành bộ binh và biểu
diễn không quân.
Cũng trong tinh thần tưởng nhớ công
đức tiền nhân, năm 1962 quận Bình khê đã xây lăng mộ nhà anh hùng Mai Xuân
Thưởng, nguyên soái lãnh đạo lực lượng Cần vương Nam Ngãi Bình Phú chống lại
cuộc đô hộ của quân Pháp dưới thời vua Hàm Nghi. Anh hùng Mai Xuân Thưởng là
người thôn Phú lạc, Tây sơn, sau khi tuẫn quốc được mai táng tại núi Phú lạc.
Tháng 4-1962 phần mộ được cải táng đưa về an vị tại lăng thờ, xây dựng trên đồi
núi dưới chân dãy Hoành sơn cạnh quốc lộ 19. Hàng năm nhân dân địa phương khói
hương chiêm bái.
Về chuyện Tây Sơn, có truyền thuyết
là một thầy địa lý người Tàu thấy nhà Tây Sơn hưng thịnh quá nên bày kế đào nối
hai dòng sông ở Bình khê, bên ngoài là để cho việc giao thông đường thủy thuận
lợi, nhưng bên trong là làm cho "long mạch" bị đứt để nhà Tây Sơn sớm
đổ. Chuyện "đứt long mạch" không chắc có, còn chuyện đào nối hai dòng
sông là thực, chứng tích còn đó. Số là, dòng sông Cái - tức sông Côn - từ phía
tây chảy xuống khi đến địa phận Cây Muồng (địa điền thôn Phú lạc) thì rẽ về
hướng bắc, chảy sau lưng xóm Chơn tự rồi mới chảy vòng lại phía đầu thôn Kiên
mỹ và xuôi dòng như hiện nay. Còn sông Con - tức sông Ðá Hàng - từ phía nam
(vùng núi Lộc đổng) chảy ra, khi đến ngang đầu thôn Hạnh lâm (Bình tường) thì
rẽ về hướng đông đi ngang qua vùng Bà Bờ lặng chảy dài đến suối Ðồng Sim (Bình
phú) đổ ra sông Cái. Theo các dòng chảy này thì thời đó từ làng Phú phong sang
làng Trinh tường không có qua sông và xóm Chơn tự là giải đất liền của làng
Trinh tường.
Thầy địa lý Tàu xúi đào con sông Cái
chạy thẳng từ Cây Muồng cắt mặt xóm Chơn tự chảy đến địa đầu thôn Kiên mỹ,
thẳng dòng về đông. Còn sông Ðá Hàng thì đào cho nước chảy thẳng theo hướng nam
bắc nối với dòng sông Cái mới đào chỗ đầu thôn Kiên mỹ. Từ đó, Phú phong sang
Trinh tường phải qua sông: thời Pháp thuộc có bắc cầu bê tông kiên cố, tục gọi
là cầu Phú phong nằm trên quốc lộ 19. Xóm Chơn tự bỏ nằm bên bờ bắc sông Côn,
mặt sau liên địa với thôn Phú lạc nhưng mặt trước bị sông chia cắt khỏi làng cũ
là Trinh tường. Dù vậy xóm Chơn tự vẫn thuộc làng Trinh tường tuy qua lại đò
giang cách trở. Mãi cho đến sau năm 1945 xóm Chơn tự mới nhập vào thôn Phú lạc,
thuộc xã Bình thành.
Trên hai đoạn mà các dòng sông Cái,
sông Con bị ngăn chặn, qua thời gian dài đã được bồi lấp thành ruộng, thành
soi, còn chỗ sâu thì thành những cái bàu, nước quanh năm không cạn. Ðó là bàu
Sen ở Phú lạc, bàu Bờ lặng trên và bàu Bờ lặng dưới ở Phú phong. Ở các bàu này
ngày trước người ta tìm thấy những đoạn dây neo cũ kỹ, chứng tỏ xưa có ghe
thuyền qua lại.Trước nay chưa có ai bỏ công nghiên cứu, tìm hiểu việc đào nối
các dòng sông nói trên để đưa ra những chứng tích địa lý và lịch sử lý thú, xác
minh sự kiện một cách khách quan.
Một chuyện khác về huyện Bình khê.
Trước năm 1975 các viên tri huyện
Bình khê có ý chê trách dân Bình khê ưa kiện tụng lẫn nhau (tranh giành hương
chức) và bảo là "Bình Khê thất thuận". Sự thực thì huyện Bình khê có
7 làng mang chữ Thuận ở trước nên gọi là thất Thuận. Chữ Thất là 7 đồng âm với
chữ Thất là mất, nên theo lối chơi chữ gọi là Bình khê thất thuận là Bình khê
mất sự thuân hòa xảy ra tệ điêu tụng. Bảy làng mang tên Thuận là: Thuận Hạnh,
Thuận Nhất, Thuận Truyền (Bình thuận), Thuận Ninh, Thuận An, Thuận Hòa (Bình
tân) và Thuận Nghĩa (Bình thành). Ngày trước lớp cựu hương lý (nay qua đời hết)
hay nhắc đến chuyện này, chứ lớp trẻ chẳng ai biết hay không biết bảy làng mang
chữ Thuận nói trên là những làng nào?
Bây giờ xin trở lại vào chuyện khác
của Bình định.
Bình định cũng là đất "văn
vật", ngày trước cũng nổi tiếng về văn học, nghệ thuật. Có nhiều bậc danh
nhân, đại thần, khoa bảng ngày xưa mà tên tuổi chưa phai mờ trong ký ức người
Bình định.
Kể từ khi có địa danh Bình định tức
là khi chúa Nguyễn mở mang phía Nam thì Ðào Duy Từ được biết đến như một Khổng
Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Tàu. Ông được chúa Nguyễn Phúc Nguyên
trọng dụng phong tước Lộc Khê hầu, giúp chúa Nguyễn tạo dựng cơ đồ vững chãi.
Vốn là người Thanh hóa có tài nhưng vì là con nhà xướng ca không được đi thi,
ông phẫn uất bỏ vào miền Nam lập nghiệp. Ông đến phủ Hoài nhơn tá túc nhà một
phú nông ở làng Tùng châu - Bồng sơn. Quan Khâm lý Trần Ðức Hòa biết là bậc
hiền tài tiến cử lên chúa Nguyễn. Tên tuổi và sự nghiệp của Ðào Duy Từ gắn liền
với Bình định.
- Ðặng Ðức Siêu người Bồng sơn, đại thần dưới
triều Gia Long, tác giả bài văn tế Võ Tánh Ngô Tùng Châu.
- Ðào Tấn người huyện Tuy phước làm quan dưới
triều Tự Ðức, là người biệt tài về nghệ thuật hát tuồng - hát bội Bình định. Cụ
vừa là soạn giả nhiều vở tuồng rất có giá trị (bây giờ còn khai dụng) vừa là
nhà tổ chức, nhà đạo diễn tài giỏi, đưa nghệ thuật hát tuồng Việt nam lên đỉnh
cao. Cụ còn lưu lại nhiều thi phẩm chữ Hán và nôm đặc sắc.
- Cụ Tú Nhơn Ân cũng là soạn giả tuồng nổi danh,
soạn giả tuồng hát bội Ngũ Hổ Bình Tây (trước 1975 giáo sư Lê Ngọc Trụ sưu tập,
in ấn phổ biến).
- Cụ Nguyễn Trọng Trì tục gọi là cụ Nghè Trì ở
làng Vân sơn, An nhơn, văn võ song toàn, đã tham gia lực lượng chống Pháp dưới
sự lãnh đạo của anh hùng Mai Xuân Thưởng, bị Pháp bắt bỏ tù nhiều năm sau khi
nghĩa quân tan rã.
- Về sau còn có cụ Ðào Phan Duân, người quận Tuy
phước, một bậc khoa bảng, túc nho, làm quan Thượng thư dưới triều Khải Ðịnh và
Bảo Ðại.
- Thời tiền chiến, nhóm nhà thơ Bình
định gồm Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan được xem là nhóm thơ có
một sắc thái đặc biệt, mỗi nhà thơ trong nhóm lại có một cá tính riêng. Xuân
Diệu trưởng thành tại Bình định, và mặc dù không thuộc nhóm "Bàn thành tứ
hữu", quê mẹ cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong thơ ông.
- Sau Hiệp định Genève, nhà thơ Lam
Giang và nhà văn Võ Phiến là hai cây bút làm hãnh diện những đồng hương Bình định.
Người Bình định từ xa xưa đã luôn
luôn chuộng đạo đức, lễ nghĩa và sự học vấn. Tại Bình định, trường thi được
thành lập từ năm Tự Ðức thứ tư (1851) để sĩ tử từ Quảng ngãi đến Bình thuận tề
tựu thi hương khỏi phải ra Huế. Trường thi nằm phía tây nam thành Bình định
(huyện An nhơn), xây bằng đá ong, chu vi khoảng 1000m, cao khoảng 2m. Ðó là một
nền lộ thiên ở giữa một dãy gò không cây cối. Ðến khoa thi, sĩ tử mang lều
chiếu tới che ngồi. Khoa đầu tiên (1852) người Quảng ngãi giật thủ khoa nên có
câu ca dao:
Tiếc công Bình
định xây thành
Ðể cho Quảng
ngãi vô giành thủ khoa.
Nhưng tiếp ba khoa sau (mỗi khoa cách nhau ba năm) ngôi thủ khoa đều về tay người Bình định, nên lại có câu:
Tiếc
công Quảng ngãi đường xa
Ðể cho Bình
định thủ khoa ba lần
Chẳng hiểu do đâu mà thế hệ con em chúng ta giờ đây hình như có mặc cảm... với tiếng nói của Bình định. Có lẽ chỉ có dân Bình định là hay dùng tiếng "nẫu". Nói là "dân xứ nẫu" thì ai cũng biết là dân Bình định. Ở đâu lại chẳng có những thổ âm,thổ ngữ, lại không có "tiếng nói đặc biệt" của địa phương. Người Bắc gọi là "họ", người Nam nói "người ta" thì người Bình định kêu là "nẫu". Ở nơi xa xôi nghìn dặm, nghe tiếng nói của đồng hương chắc ai cũng cảm thấy có chút thân thương trìu mến, có cái vui chân phương.
Thương chi cho
uổng công tình
Nẫu về xứ nẫu
bỏ mình bơ vơ!
Chữ "nẫu" trong câu này có cái hay riêng của nó, vừa thân tình, vừa thâm thúy. Từ chữ "nẫu" lại có chữ "nậu", nghĩa là những người ấy. Có ai tìm được chữ nào hay hơn để thay cho chữ "nậu" trong câu sau đây:
Ai về nhắn với
nậu nguồn
Măng le (hay
thơm ngon) gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
Bạn nguồn? Người nguồn? Bọn nguồn? Không, không được và không bằng chữ "nậu", nhất định là phải giữ lại chữ "Nậu" cho câu trên.
Tôi đã cà kê kể lể khá dài dòng về
những chuyện to, chuyện nhỏ của Tây sơn - Bình định. Vẫn muốn kể thêm nhưng
thôi, vì sự đa ngôn thì đa... quá.
Ðã từ lâu tôi ít muốn nói về chuyện
Tây Sơn, chuyện lịch sử anh hùng dân tộc... bởi những chuyện ấy không đáp ứng
được những khát vọng nóng bỏng của mình trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Năm
mươi năm qua thời thế không tạo được anh hùng và không có anh hùng để tạo thời
thế. Ðất nước, dân tộc... dậm chân tại chỗ, ngày nay vẫn như ngày nào! Ngày
nào, trong cảnh giam hãm tù đày, một con dân Tây sơn - Bình định da diết nhớ
thương Mẹ già, nhớ thương Quê hương, đồng hoá cả hai là một:
Quê nhà bóng xế ngả nhành dâu
Nhịp võng, lời ru chuyển điệu sầu
Trăng nước đâu còn trăng nước cũ
Khôn cầm giọt lệ giữa đêm thâu!
Sống ở miền Nam mà đêm đêm "Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài!"
Bây giờ thì Quê hương xa cách nghìn
trùng. Ở đây hoàng hôn xuống không thấy quê nhà ở đâu, đành phải kêu lên:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai)
Người xưa bảo: "Tha phương ngộ cố tri" là một trong bốn điều vui mừng nhất của đời người. Có người chưa chịu bảo phải thêm trước câu trên hai chữ "vạn lý" mới "đã", mới thấm thía. Bây giờ trong cảnh "vạn lý tha phương ngộ cố tri", tôi thấy mừng và quí lắm. Và tôi lại viết về quê hương, viết về Tây Sơn, Bình định để tạ lòng cố tri và đáp tình đồng hương thân mến.
BTK
Xuân Ất Hợi 1995
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét