Lăng nhà Anh hùng kháng Pháp : Mai Xuân Thưởng |
Anh
hùng Mai Xuân Thưởng ứng hùng năm Canh Thân (1860), tuẫn quốc năm Ðinh Hợi
(1887). Người thôn Phú Lạc, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Ðịnh. Tư cách khác phàm,
văn võ gồm đủ.
Theo
tài liệu gần đây thì thân phụ của anh hùng Mai Xuân Thưởng là cụ Mai Xuân Tín,
Bố chánh sứ tỉnh Cao Bằng, khi mất được vua Tự Ðức ban sắc truy tặng làm Trung
Thuận Ðại phu, Án sát sứ (chánh tứ phẩm) tỉnh Cao Bằng, đặt tên Thụy là Ðoan Cẩn.
Cụ Mai Xuân Tín là "nho khoa trạc tú, nghệ phố tiêu anh" (tức xuất
thân từ khoa cử, tài đức tốt vời). Cụ mất năm 1866 lúc đang làm Bố chánh Cao Bằng,
quan cữu được hộ tống về Bình Ðịnh giao cho vợ con cụ nhận an táng tại nguyên
quán (Phú Lạc). Lúc ấy Mai Xuân Thưởng mới 6 tuổi.
Năm
Ất Dậu (1885), quân Pháp đánh lấy Huế, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, xuống
chiếu Cần vương. Lúc bấy giờ ở tỉnh Bình Ðịnh đang mở khoa thi Hương cho các tỉnh
từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận. Vừa thi xong trường Ba thì được tin kinh thành thất
thủ, nhà vua xuất bôn. Sĩ tử phần đông bỏ thi, vào trường Tư chỉ còn 8 người và
đều trúng tuyển Cử nhân, trong số đó có Mai Xuân Thưởng.
Khi
ban áo mão cho các vị tân khoa, quan Chánh chủ khảo có tặng một bài thơ:
Sơn
hà phong cảnh dị tiền niên
Hoàn
giám du khan thử địa huyền
Hận
mãn xương môn trần ám ngoại
Lê
linh văn viện bút đình biên
Lịch
triều giáo dục ân như hải
Bát
giải thanh danh phẩm thị tiên
Nhất
dự y quan nan tự hủy
Cương
thường khán thử cổ anh hiền
Bài
thơ có nghĩa:
Non
sông xưa đã khác rày
Gương
"hoành công khí" nơi này còn treo
Cửa
rồng hận ngất trần hiêu
Bút
hoa tuôn lệ tiêu điều viện văn
Lịch
triều lai láng biển ân
Dự
hàng bát tuấn thêm phần thanh cao
Áo
xiêm trót đã buộc vào
Cương
thường noi dấu anh hào nghìn xưa
Sau
khi xướng danh, quan Chánh chủ khảo mời riêng Mai Xuân Thưởng vào phòng nói
chuyện. Nguyên trước khi khảo lại các quyển thi, quan Chánh chủ khảo nằm mộng
thấy một bà lão tặng một nhánh mai chỉ trổ một bông nhụy vàng cánh trắng, mùi
hương nhẹ nhàng. Quan vừa đưa tay nâng thì hoa mai liền rụng vào nghiên son và
bà lão biến mất. Giật mình tỉnh dậy, băn khoăn không hiểu là điềm chi. Khi thấy
trong tám vị cử nhân có họ Mai và xem lại quyển thi thấy văn chương có khí
phách, đoán rằng điềm ứng vào Mai công, nên mời vào ủy thác đại sự. Lúc này nước
nhà còn mất, phần lớn là do nơi đám sĩ phu, làm việc phải hết sức thận trọng.
Mai
Xuân Thưởng lãnh ý, trở về nhà noi dấu anh hào nghìn xưa, dấy nghĩa binh chống
Pháp. Kính phục tài năng và đức độ của Mai công, các danh nhân trong tỉnh như
Tăng Bạt Hổ ở Hoài Ân, Nguyễn Trọng Trì ở An Nhơn, Nguyễn Hoá ở Bình Khê, Nguyễn
Can ở Tuy Phước... đều ra phò tá. Sĩ phu các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận
đều hợp tác và chịu quyền chỉ huy. Ðại đa số dân chúng địa phương đều góp sức,
góp công tham gia kháng chiến.
Nghĩa
binh trú đóng những nơi hiểm yếu, đào hào đắp lũy chống giặc xâm lăng. Súng đạn
có ít, binh khí phần nhiều là giáo sào, gươm mác, cung tên. Nhờ lòng dũng cảm của
tướng sĩ, sự ủng hộ triệt để của đồng bào, nhiều trận đánh xáp lá cà đã làm cho
địch quân phải khiếp đảm. Gần ba năm trời nghĩa binh chiến đâu anh dũng. Pháp
không thể chiến thắng bằng quân sự bèn dùng tiền của, chức tước, lợi lộc mua
chuộc nhưng không kết quả.
Vào
khoảng hạ bán niên Bính Tuất (1886), Pháp sai trú sứ Aymonier và Trần Bá Lộc cử
đại binh từ Sài Gòn ra Bình Ðịnh quyết tiêu diệt nghĩa binh. Mặc dù nghĩa binh
tinh thần chiến đấu ngày thêm cao, nhưng trước một địch thủ đông quân số, thiện
chiến và vũ khí tân chế, đạn dược hậu cần đầy đủ, nên nghĩa binh không chống giữ
nổi các yếu điểm. Tháng 3 năm Ðinh Hợi (1887), sau trận thư hùng cục kỳ quyết
liệt ở Bàu Sấu (An Nhơn), tướng sĩ và ba quân bị thương vong nặng nề, lực lượng
tan rã, thất lạc. Mai công bị thương nặng, đơn thương độc mã chạy vào Linh Ðỗng
(núi Phú Phong) ẩn náu và tìm phương kế gây lại lực lượng diệt thù. Quân giặc
truy tầm nhưng không dò ra tin tức.
Tên
ngoại nô Trần Bá Lộc liền hạ độc thủ: sanh cầm Mai thái mẫu, thảm sát lương
dân, ngày ngày bắt lý hương hai thôn Phú Lạc và Phú Phong tra khảo. Trước tình
thế khó cứu vãn, không muốn kéo dài cuộc chiến vì sợ đồng bào thương vong, khốn
khó, Mai công rời Linh Ðỗng đến nạp mình cho giặc tại đình làng Phú Phong, nơi
bọn Trần Bá Lộc đóng quân.
Triều
đình Huế theo lệnh quân Pháp, khép Mai công vào tội tử hình, đưa đến thành Bình
Ðịnh để chém đầu. Mai anh hùng tuẫn quốc ngày Rằm tháng Tư năm Ðinh Hợi (1887),
thi thể được thân nhân nhận đưa về chôn cất ở làng cũ là Phú Lạc (Bình Khê)
phía bắc ngạn sông Côn. Khi ra pháp trường, Mai công hướng về phía bắc lạy 5 lạy
từ giã Vua, hướng về tây lạy 4 lạy từ giã Mẹ rồi ung dung bước lên đoạn đầu
đài.
Bản
án tử hình của Triều đình Huế dành cho Mai công có hai câu luận tội quan trọng:
Dương
vị Hàm Nghi khởi nghĩa
Âm
vị Huệ Nhạc báo thù”
Có
nghĩa là, bề ngoài (mặt nổi) thì anh hùng Mai Xuân Thưởng vì vua Hàm Nghi mà khởi
nghĩa, còn thực chất bên trong (mặt chìm) thì để báo thù cho Nguyễn Huệ, Nguyễn
Nhạc... Mai công là người làng Phú Lạc, nơi sinh trưởng của Ba Vua Tây Sơn, nên
triều đình Huế cho Mai công là thân thuộc dòng họ Tây Sơn, vì nhà Tây Sơn mà khởi
loạn chống lại triều đình. Kết tội như vậy cho đỡ bẽ mặt chớ chẳng lẽ kết tội
Mai công hưởng ứng lệnh Cần vương của vua Hàm Nghi mà khởi binh chống Pháp để cứu
dân cứu nước! Người đời thường nhắc lại bài thơ mà Mai nguyên soái đã đọc (khẩu
chiếm) trước khi bị đoạn đầu:
Không
tính làm chi việc mất còn
Nợ
trai lo trả ấy là khôn
Gió
đưa hồn nghĩa gươm ba thước
Ðá
tạc lòng trung quí mấy hòn
Tái
ngắt mặt gian xương tợ giá
Ðỏ
loè bia sách máu là son
Rồi
đây ngọc luật đưa xuân lại
Một
nhánh Mai già nảy rậm non
Những
cứ điểm trú phòng và những trận địa chiến của quân khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Mai nguyên soái đến bây giờ vẫn thường được nhắc nhở:
-
Lộc Ðỗng tức Ðồng Hươu thuộc vùng núi Xà
Kính ở làng Phú Phong (Bình Khê), trên đường vào Hầm Hô. Cơ quan chỉ huy toàn tỉnh
đóng tại đây.
-
Linh Ðỗng nằm trong vùng núi phía tây Lộc
Ðỗng, thường gọi là Ðồng Le, tên chữ là Linh Phong Ðộng. Cơ quan bí mật của lực
lượng kháng chiến ẩn trú tại đây, do Thống binh Nguyễn Hóa trấn giữ nên dân địa
phương thường gọi là hang Thống Nguyễn. Nơi đây có hai hang, một trước một sau
đều ăn sâu vào núi. Hang trước không rộng lắm, chưa vài chục người. Phía trước
có một ngọn núi đứng dựng như một bức bình phong, phía sau là một dòng suối chảy
quanh co. Qua khỏi suối đến Hang sau, rộng gấp 7, 8 lần hang trước. Miệng hang
rộng đến vài thước, cao trên ba thước. Lòng hang bồng bềnh. Nắng lọt qua các kẽ
đá, toả ánh sáng lờ mờ. Trước cửa, cây cối mọc um tùm che khuất cà miệng hang,
không phải người quen đường thuộc lối, không thể nào tìm ra được hang. Vì vậy
sau khi nghĩa quân đại bại ở Bàu Sấu (An Nhơn), Mai công vào Linh Ðỗng ẩn náu,
quân địch lùng kiếm hết sức nhưng không tìm ra tung tích.
Ở
Linh Ðỗng có đường ra Lộc Ðỗng mà cũng có đường sang Ðồng Vụ là nơi tích trữ
lương thực gọi là Nam trại (thuộc làng Trinh Tường).
-
Ðồng Quan là hậu cứ của nghĩa binh ở
thôn Thuận Ninh, phía bắc sông Côn. Những quân lính sau thời gian trực tiếp tác
chiến, trở về đây nghỉ ngơi và tăng gia sản xuất lương thực. Bắc trại Ðồng Quan
là vùng đất phì nhiêu vì quanh năm có nước suối. Ðường vô ra rất hiểm trở vì
chung quanh có núi gò bao vây. Phía nam của Bắc trại có một cái truông gọi là
Truông Xe. Những xe cộ chở lương thực vào tích trữ ở Bắc trại cũng như phân phối
ra tiền tuyến đều phải dừng nơi truông nên có tên gọi là Truông Xe.
-
Bàu Ðồn ở xóm Ðồng Tre, thôn Tả Giang
(Bình Khê) nằm dưới một dốc cao, nghĩa binh của Mai công lập một cứ điểm quân sự
nên gọi là Bàu Ðồn và Dốc ông Mai.
-
Hòn Tổng Dinh ở quận Hoài Ân thuộc sơn hệ
Kim Sơn. Ðây là một khu thứ hai của nghĩa binh ở phía bắc tỉnh Bình Ðịnh. Lúc đầu
nghĩa binh chia làm 2 Trấn hoạt động phía nam và phía bắc tỉnh. Mai Xuân Thưởng
đặc trách trấn phía nam. Cụ Tăng Bạt Hổ đặc trách trấn phía bắc, đặt Tổng hành
dinh trong vùng núi Kim Sơn và cứ điểm đó được gọi là Hòn Tổng Dinh.
Phía
nam hòn Tổng Dinh có hòn Trà Vinh, nghĩa quân cật kho tích trữ lương thảo, nên
núi này có tên là núi Kho (hay núi Ðồng Kho). Ðịch quân chưa lần nào tiến đánh
Tổng Dinh được vì địa thế hiểm yếu. Sau khi nghĩa binh bị đại bại tại trận Bàu
Sấu, anh hùng Mai Xuân Thưởng tuẫn quốc, thì nghĩa binh ở mật khu Tổng Dinh cô
thế, phải tan hàng. Cụ Tăng Bạt Hổ xuất ngoại, rồi sau này cùng cụ Phan Sào Nam
gây phong trào Ðông Du.
-
Thứ Hương Sơn. Hương Sơn tục gọi là núi
Thơm ở huyện Bình Khê, nằm tựa sông Côn phía bắc ngạn, giữa những cánh đồng rộng
của các thôn Kiên Thạnh, Trường Ðịnh, Vân Tường, Vĩnh Lộc, An Chánh. Nghĩa binh
xây dựng cứ điểm quân sự, một dãy đồn lũy được xây đắp nơi một cái Eo ở giữa
núi, gọi là Thứ Hương Sơn.
Nguyên
soái Mai Xuân Thưởng giao việc trấn thủ Thứ Hương Sơn cho các vị: Tham trấn Võ
Phong Mậu, một cử nhân ở thôn Thuận Hạnh (Bình Khê) tục gọi Tham Mậu. Hiệp trấn
Nguyễn Trọng Trì, một danh sĩ ở An Nhơn, đậu cử nhân, làm quan ở Huế, không chịu
nổi quốc nhục bỏ về vườn. Quản trấn Trần Nhã, một phú hộ ở thôn Trường Ðịnh,
tánh hào hiệp, võ tinh luyện.
-
Bàu Sấu, tên chữ là Ngạc Ðàm, ở dưới
chân phía tây núi Kỳ Ðồng, nằm giữa thôn Ðại Bình và Thiết Tràng (An Nhơn). Xưa
kia có một con cá sấu ở nơi bàu, sau bị lụt trôi đi mất. Bàu chỉ lớn độ vài ba
mẫu, nước sâu không bao giờ cạn, qua lại phải dùng đò. Cuối năm Bình Tuất
(1886), nghĩa quân Cần vương bị quân Trần Bá Lộc đánh phá dữ dội, nhiều đạo
binh phòng thủ các yếu địa bị tiêu diệt lần. Liệu thế không thể kéo dài cuộc
chiến, Mai nguyên soái quyết định cùng địch quân một trận mất còn: dồn đại binh
lên núi Kỳ Ðồng, dùng Bàu Sấu lập trận thủy bối (dựa lưng vào nước mà tử chiến).
Quân ta và quân địch cự chiến suốt hai ngày đêm. Ðịch tổn thất rất nhiều, nhưng
địch có súng trường, trọng pháo, còn nghĩa binh thì vũ khí thô sơ. Sau mấy trận
chống chỏi oanh liệt, lớp này chết lớp kia xông ra, nghĩa quân hao mòn, đuối sức
bị quân địch tiêu diệt. Mai nguyên soái bị thương nặng, máu ướt cả chiến bào,
chết ngất trên mình ngựa. Con Hồng (ngựa) chở chủ vượt qua Bàu Sấu chạy thẳng về
nhà ở Phú Lạc. Sau khi được cứu tỉnh, nguyên soái vào mật khu Linh Ðỗng, quyết
chỉnh tu binh mã để tiếp tục kháng chiến. Nhưng rồi sau đó, vì độc thủ của Trần
Bá Lộc nên Mai công phải nộp mình cho giặc và bị xử chém.
Những
trận đánh lớn khác còn được nhắc đến như Thủ Thiện, Ðồng Vụ (Bình Khê); Ðông
Viên, Cầm Văn (An Nhơn); cầu Trường Úc (Tuy Phước). Nghĩa binh đã sử dụng võ
thuật Bình Ðịnh đánh xáp lá cà gây nhiều tổn thất cho địch quân.
Tướng
Ðặng Ðề (người Bình Khê) - một tay võ nghệ nổi tiếng - đã chỉ huy mặt trận Thủ
Thiện (nay thuộc xã Bình Nghi) cho quân xung phong cận chiến, có trống trận yểm
trợ tinh thần, y như đạo quân Tây Sơn ngày trước. Vị tướng này có viết :
Thủ
Thiện thôn trung bề cổ động
Nghĩa
binh phấn dũng vũ đao thương
Việt
Thao dịch:
Thủ
Thiện trong thôn trống trận rền
Nghĩa
binh dũng cảm giáo vung lên
Sau
này, Lê Thượng Nghĩa (Sư tổ võ thuật Bình Ðịnh) có bài thơ nhắc đến các trận
đánh ở Trường Úc và Cẩm Văn:
Binh
nhung hào kiệt vũ ngô câu
Xung
đột trùng vi trảm tặc đầu
Trường
Úc, Cẩm Văn tề báo tiệp
Nghĩa
binh thanh giá chấn toàn châu
Việt
Thao dịch:
Diệt
thù hào kiệt múa gươm thiêng
Xông
phá vòng vây chém giặc liền
Trường
Úc, Cẩm Văn đều thắng lớn
Nghĩa
quân lừng lẫy khắp trong miền
Mai
anh hùng bị bọn thực dân và phong kiến kết tội phản loạn (làm giặc) nên không
ai dám đến viếng phần mộ của người (mộ đất ở thôn Phú Lạc), ngoại trừ gia đình
thân thuộc mỗi năm đến tảo mộ một lần.
Sau
ngày chính quyền Quốc gia tái lập trên đất Bình Ðịnh, nhân dân Bình Khê chung của,
góp công xây lăng mộ và lập bia kỷ niệm để tỏ lòng sùng bái anh hùng. Mộ của
Mai nguyên soái nằm nơi khuất tịch, giao thông trở ngại, nên sĩ phu và dân
chúng thương thảo với Mai tộc, cải táng sang phía nam ngạn sông Côn, bên quốc lộ
19 thuộc xã Bình Tường.
Lăng
xây trên dãy Hoành Sơn, tục gọi Núi Ngang, mặt hướng về đông. Bốn trụ ba biểu
to lớn, cao vút đứng sừng sững làm cổng vào Lăng. Lăng bao trùm một ngọn đồi
tròn trịa xinh xắn. Qua khỏi bốn trụ ba biểu, bước lên 26 bực cấp vừa cao, vừa
rộng thì đến Ðài Kỷ niệm. Ðài dựng giữa một khoảnh sân rộng, mặt trước đắp 4 chữ
lớn "TỔ QUỐC GHI CÔNG". Qua khỏi Ðài thì đến Chính tẩm. Ðây là một
ngôi nhà điệp ốc, cất theo kiểu xưa, mái ngói âm dương, thềm đá núi, nền lát đá
vuông láng. Mộ nằm giữa nhà, hình chữ nhật, phía trước có mộ chí:
Ðây
là nơi an nghỉ
Bên
lòng người Việt yêu nước
Nhà
Anh Hùng
MAI
XUÂN THƯỞNG
Ứng
hùng năm Canh Thân (1860)
Tuẫn
quốc năm Ðinh Hợi (1887)”
Dưới
chân mộ là tấm bia cao lớn khắc một bài KỶ nêu tiểu sử và công nghiệp của Mai
Anh hùng. Lăng xây cất trông đơn giản, nhưng quang cảnh thật trang nghiêm.
Lăng
xây vào mùa Xuân năm Tân Sửu (1961), nhưng đến cuối Ðông (ngày 17 tháng chạp tức
22-1-1962) mới cải táng Mai công. Lễ cải táng rất trọng thể. Trước ngày chính lễ,
trung cốt được bốc theo cổ tục. Di hài không còn gì, chỉ thu lượm được mấy mảnh
xương chân, một hột nút huyền và ít đất đen. Ðồng bào địa phương và các quận hạt
lân cận trong tỉnh đến dự lễ rất đông. Ai nấy đều lặng lẽ xếp hàng từng đoàn, từng
toán dọc hai bên đường để chiêm bái linh cữu đi qua. Từ đó các nhà hữu tâm và
khách du lịch phương xa thường đến viếng Lăng. Hằng năm, vào ngày Rằm tháng tư
âm lịch, nhân dân Bình Khê cử hành lễ tưởng niệm tại Lăng.
Từ
năm 1965 cuộc chiến tranh trở nên khốc liệt, du kích quân thường ẩn núp trong
Lăng để bắn tỉa và tấn công xe và binh sĩ VNCH di chuyển trên quốc lộ 19. Súng
đạn đã làm cho Lăng bị hư hỏng đổ nát và không có ai dám đến viếng Lăng nữa. Ðến
nay Lăng vẫn còn trong tình trạng hư hỏng không được trùng tu.
Bây
giờ, Từ đường họ Mai còn toạ lạc tại thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn
(Bình Khê cũ), tỉnh Bình Ðịnh. Vào ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, lễ giỗ
Mai anh hùng được cử hành đơn giản tại đây, trong không khí đầm ấm, cảm động của
gia đình họ Mai.
Ngày
xưa, trong bài Ai Ðiếu Mai Nguyên Soái, một danh sĩ đương thời là Nguyễn Bá
Huân đã hết lòng tán thán, khâm phục:
Ðan
tâm chỉ vị cứu lương dân
Hoành
sóc ngâm thi hữu kỹ nhân
Nhất
phó hung khâm hoành vĩ trụ
Tam
niên cầm kiếm định phong trần
Có
người đã dịch:
Lòng
son chỉ muốn cứu lương dân
Vung
giáo, ngâm thi mấy kẻ bằng
Một
tấm lòng trung trùm vũ trụ
Ba
năm đàn kiếm sạch phong trần
Sự
nghiệp của anh hùng Mai Xuân Thưởng đã được chép vào Quốc sử, tên tuổi và tài
danh của Người mãi mãi rạng rỡ với núi sông và mãi mãi sống trong lòng người Việt
Nam. Tình cảm của người dân địa phương đối với Mai Anh hùng vừa bàng bạc, vừa
sâu lắng qua câu hát dân gian:
Ngó
vô Linh Ðỗng mây mờ
Nhớ
Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây...!
BÙI THÚC KHÁN
Nam California, tiết Quí Ðông Kỷ Mão
Thư Viện Bình Định
Khổ thay cho Mai nguyên soái!
Trả lờiXóaKhi thì vì tình hình an ninh, người này phải cải táng và lập lăng mộ để thờ ở chỗ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của Ngài!
Lúc thì ngay vị trí toạ lạc lăng mộ của Ngài, người kia cũng chỉ trật lất cái địa danh (Coi đây )!