Đò chiều còn đó người đưa, Ngâm Ai Tư Vãn người xưa đâu rồi

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

NGÀY XUÂN NGẪM Ý XUÂN


Chắc cũng giống như mọi người, ngày xuân mà giới tay chân hằng ngày lấm mực ngẫm đến ý xuân thì họ nhớ liền ngay tới 2 câu cuối trong bài kệ của Mãn Giác Thiền Sư :

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua - sân trước - một cành mai.

Hai câu cuối của bài kệ nổi tiếng đến nỗi ai cũng nhớ, cũng thấm. Nhớ đến nỗi không cần nhớ cả toàn bài. Thấm đến nỗi khi đọc Đình tiền - Tạc dạ - Nhất chi mai … một không gian (sân trước), một khoảng thời gian (đêm vừa qua), một sự vật (một cành mai), những thành tố rời rạc đến vậy mà người đọc, người nghe tự liên tưởng đến ngay một cành mai vừa đâm chồi nẩy lộc vào đêm qua ở trước sân, liên tưởng đến ngay một sự sống chớm dậy dù xuân đã tàn.

Ca từ của Trịnh Công Sơn cũng rời rạc giống vậy như trong Ngụ Ngôn Mùa Đông :

Một ngày mùa đông
Trên con đường mòn
Một chiếc xe tang
Trái mìn nổ chậm …

Nhưng không như tạc dạ nhất chi mai, ngụ ngôn mùa đông phải cần đến một thành tố khác nối tiếp để diễn giải cho sự việc cần nói đến :

Người chết hai lần
Thịt da nát tan …

Thi kệ là vậy. Ẩn dụ trong nó sẽ được người đọc, người nghe tự chứng nghiệm. Tương truyền bài kệ Mãn Giác Thiền Sư đọc trước khi viên tịch vào cuối tháng 11 năm 1096, được chép trong Thiền Uyển Tập Anh, rồi người đời sau - Lê Quý Đôn đặt cho cái tiêu đề là Cáo Tật Thị Chúng - Có Bệnh Báo Cho Mọi Người.

Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) mất ở tuổi 45, chẳng rõ ông mất có phải vì bệnh hay không nhưng lời ông để lại là cả một sức sống vĩnh trường. Ông mất vào mùa đông, nhưng ý xuân lại ngồn ngộn trong lời ông để lại :

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Dòng đời trước mắt trôi
Cái già trên đầu tới
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua - sân trước - một cành mai.

Xuân Ý - tự trong nó là những Cái Đẹp ở trên đời. Khi đón nhận sự việc chung quanh là Cái Đẹp thì cuộc đời giống như trăm hoa khai nở. Từ xưa đến nay ai cũng đều xem sự đời như bóng câu qua cửa sổ, với dòng đời đang trôi qua trước mắt, cái già sẽ theo tới trên đầu ngay tức khắc. Chuyển biến thời gian của cuộc sống là vậy, nhưng trên cõi tạm ngắn ngủi của thế gian con người còn có một lẽ sống là đừng để Cái Đẹp rời đi như trăm hoa rụng xuống. Cái Đẹp có từ mỗi nhận thức, mỗi chứng ngộ của một bản ngã. Khi đã gọi nó là Cái Đẹp thì nó vĩnh cửu trong lẽ sống. Tuần hoàn tự nhiên của vạn vật là đổi thay, với Cái Đẹp, chớ có bảo khi xuân tàn thì trăm hoa đều rụng hết, chỉ một cành mai ở trước sân vừa chớm dậy trong đêm qua sẽ nở trăm hoa, rồi sẽ cho cả mùa xuân.

Với Thiền Sư Mãn Giác, một vị sư tiêu biểu của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, Ý Xuân - Cái Đẹp vượt lên cả tuần hoàn của sự sống. Sanh sau ông 200 năm, Thiền Sư Huyền Quang (1254 - 1334), Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng có cái nhìn huyền diệu giống như ông, Ý Xuân của Huyền Quang trải dài theo lẽ sống cho đến khi nào chuyển động của vũ trụ không còn tồn tại :

Khả liên vô hạn thương xuân ý.
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
(Xuân Nhật Tức Sự - Huyền Quang)

Miên man xuân ngập ý tình
Tận nơi lặng tiếng dặm nghìn thoi đưa

Thiền sư là những bậc chân nhân lấy thanh tịnh làm gốc, hành vi của họ phần nhiều có dáng dấp của thiền vị ở bên trong. Với các Thiền nhân, thơ văn của họ không chỉ để bộc bạch nỗi lòng mà trong đó còn ngụ thiền, dù không đạt đến mức thành những câu kệ để khai ngộ chúng sinh thì ít ra cũng biểu hiện được sự chứng ngộ của một bản ngã. Những thi nhân nổi tiếng các đời Đường Tống của Trung Hoa như Vương Duy, Trần Tử Ngang, Tô Đông Pha … ít nhiều đều có ý vị thiền trong thơ.

Xem ra lấy thanh tịnh làm gốc, những hành vi có dáng dấp của thiền vị đâu phải là những hành vi buông xuôi với lẽ sống. Cái Đẹp của lẽ sống với biểu hiện của nó là những mềm mại, êm dịu nhưng có sức sống uyển chuyển, mãnh liệt. Vào thời Lý Trần là thời kỳ liên miên xảy ra chinh chiến, mọi sức lực của quốc gia được điều động để bình loạn, để kháng cự sự xâm lược của quân Tống, quân Nguyên. Binh lửa tràn lan. Nhưng những di chứng máu lửa, tàn khốc của chiến chinh đã được làm dịu đi là nhờ lúc nầy xã hội đã nhuần thấm hương vị của Thiền tông : Phật ở tại Tâm, Tâm là Niết Bàn, Tâm thanh tịnh là tạo cho mình tránh được những phiền não chung quanh …

Đạo Phật thời Lý Trần có lẽ được xem là thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật giáo. Dù nhiều tông phái khác nhau cùng du nhập, nhưng tư tưởng Phật giáo vẫn là tư tưởng chính thống hòa cùng tín ngưỡng dân gian chi phối mọi sinh hoạt trong đời sống xã hội. Nhiều Thiền sư trong thời kỳ nầy đã được mời tham gia chính sự, một số đã có những cái nhìn xuyên suốt sức sống của vạn vật, của lẽ tử sinh. Ảnh hưởng của họ, của Phật pháp đã tạo cho các nguyên thủ cầm quyền thành những người uyên thâm đạo học, có những chính sách cai trị nhân ái, khoan sức dân. Tiêu biểu như Lý Thánh Tông, được biết đến là một ông vua tận tụy với công việc, biết thương dân như con, biết đối xử tốt với tù nhân, là người cho lập ra Thiền phái Thảo Đường thời nhà Lý. Tiêu biểu như Trần Nhân Tông, vị vua anh minh từng 2 lần điều động quân binh kháng cự quân Nguyên Mông, là người sáng lập, là Thủy tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền của chính người Việt Nam.

Riêng thời Lý có đặc điểm là cả đạo Phật, Nho giáo và Đạo giáo đều cùng tồn tại và phát triển. Xã hội nhìn nhận tam giáo đồng nguyên, triều đình cho lập cả khoa thi tam giáo tuyển người thông hiểu giúp vua lo việc chính sự. Vương triều Lý tồn tại đến hơn 200 năm, không thể phủ nhận là có sự đóng góp của sự dung hòa mềm mại uyển chuyển nầy. So với nhà Hậu Lê sau đó mang nặng tư tưởng tôn quân của Nho giáo, so với sách sử thì Lý Thánh Tông có thể không có công lao bình thiên hạ mở rộng cương vực cho dân tộc như Lê Thánh Tông. Nhưng cũng với sách sử thì 2 ông vua có cùng miếu hiệu là Thánh Tông nầy có 2 mùa xuân đáng để suy ngẫm :

Mùa đông tháng 10 năm Ất Mùi (1055) trời rét đậm, vua Lý Thánh Tông bảo với các quan tả hữu : Trẫm ở trong cung sưởi than xương thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét thế này. Nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, gông cùm khổ sở, xét hỏi chưa xong, ngay gian chưa rõ, ăn không no bụng, mặc không kín thân, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương xót. Nói rồi lệnh cho Hữu ty cấp chăn chiếu và cấp [cho tù nhân] cơm ăn ngày 2 bữa (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Mùa đông tháng 11 năm Canh Dần (1470), Ngày 16 vua Lê Thánh Tông ngự giá bình Chiêm, khởi hành trời mưa nhỏ, gió bấc. Tư thiên giám Tạ Khắc Hải tâu rằng : Mưa là mưa nhuần quân, gió từ phương bắc là gió hòa. Cho nên khi thuyền đi vua có câu thơ rằng Bách vạn sư đồ viễn khai hành, Xao bồng vũ tác nhuận quân thanh (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Vua nhà Lý ngày đêm có thể ăn chẳng ngon, ngủ không yên vì luôn áy náy tù nhân trong ngục bụng không no cơm, thân không ấm áo. Nhưng mùa xuân năm Bính Thân ấy (1056), chắc chắn lòng của vua được thanh tịnh hơn khi người tù đã được cấp chiếu chăn. Rồi những mùa xuân năm sau, nhờ tấm lòng thương dân như con, giảm nhẹ hình phạt của vua mà thời vua cai trị ít có biến loạn, giặc giã hơn các triều đại khác.

Vua nhà Lê đưa trăm vạn quân đi đánh cõi xa, gặp lúc mưa phùn gió bấc, có thể ông vẫn thản nhiên ngủ ấm vì xem tiếng mưa gõ vào mui thuyền như tiếng gõ nhịp làm tăng thêm thanh thế tiếng quân đi - Bách vạn sư đồ viễn khai hành, Xao bồng vũ tác nhuận quân thanh. Nhưng điều chắc chắn là mùa xuân Tân Mão (1471), ở hành tại tại Thuận Hóa, tâm vua Lê không thể nào yên khi trước biên địa là giặc. Và những mùa xuân năm sau tâm vua Lê chắc cũng khó mà thanh tịnh khi nghĩ đến trận chiến đã chém hơn 4 vạn thủ cấp khi tiến vào thành Đồ Bàn năm ấy !?

Cái Đẹp của lẽ sống không phải là sự chiến thắng trong một cuộc chiến mà là chiến thắng chính bản thân mình. Mọi sự việc trên đời hiện hữu từ nhận thức của con người, nên đều có những giai đoạn khởi đầu, hưng thịnh và suy tàn. Nhưng với Ý Xuân - Cái Đẹp, không là chân lý nhưng ý tình của nó lan đến tận tại đình châm bất ngữ thì, trong cái suy tàn đã có cái khởi đầu cho một tương lai mới đình tiền tạc dạ nhất chi mai.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét