Từ
năm 1955, sĩ số càng ngày càng tăng, các trường công lập không đủ sức dung nạp.
Đầu thập niên 1960, số học sinh thi vào đệ thất trường công lập, trúng tuyển
khoảng 30%. Mặc dù Bộ Giáo Dục cố gắng phát triển hệ thống trung học công lập đến
các quận, thị trấn và cả thị tứ; nhưng vẫn không bắt kịp với đà học sinh gia
tăng. Đến đầu thập niên 1970, các trường công lập cũng chỉ thu nhận được 60% tổng
số học sinh muốn vào lớp sáu [1]. Vì thế, những
mô hình trường trại khác, cũng được thiết lập song hành với trung học công lập,
hòng đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục.
Với
tỉnh Bình Định, trước năm 1975, ngoài hệ thống Trung Học Công Lập, ở Qui Nhơn
còn có các loại trường Trung Học Tư Thục, Trung Học Nghĩa Thục, Trung Học Văn
Hóa Quân Đội phát triển mạnh. Và ở các quận, lại có mô hình Trung Học Bán Công [2], Trung Học Tỉnh Hạt [3],
Trung Học Tư Thục, song hành với hệ thống Trung Học Công Lập.
Dù
có nhiều loại trường cùng phát triển, nhưng các học hiệu cần theo đúng chương
trình giảng dạy của Bộ Giáo Dục, nhằm ý hướng học sinh đều có chung một trình độ
như trường công lập. Vì khi thi tốt nghiệp các cấp phổ thông, không phân biệt
thí sinh của loại trường nào. Tất cả bài thi đều được Hội đồng Giám khảo rọc
phách [4], chấm bài theo mẫu thang điểm chung.
Ngoại
trừ trường Trung Học Tăng Bạt Hổ ở Bồng Sơn quận Hoài Nhơn thành lập năm 1955,
các trường trung học ở các quận khác phải đến đầu thập niên 1960 mới hình
thành.
QUẬN TUY PHƯỚC
: 7 TRƯỜNG
01 - Trung Học Tuy Phước:
Nguyên
khuôn viên trường là ruộng sâu được lấp đất cao thành vườn, nằm bên lề phía bắc
Quốc lộ 1 (cũ), cách Quận Đường Tuy Phước chừng 200 mét về hướng Đông Nam.
Trung
Học Tuy Phước là trường tỉnh hạt, xây dựng khoảng đầu năm 1968, ban đầu chỉ có
3 phòng, nằm dọc phía Tây khuôn viên trường, ngó xuống cầu Trường Úc, dùng làm
lớp học và văn phòng, kinh phí do Tòa Tỉnh Bình Định đài thọ [5]. Trường khai giảng niên khóa 1968 - 1969, mở 3 lớp
Đệ thất.
Sau
đó, Hội Phụ Huynh đảm nhận xây dãy lớp chính, lầu đúc, ở phía Bắc, nằm ngang trải
dài, để lộ một sân rộng, ngó ra Quốc lộ 1; và lúc ấy, hai dãy phòng nối thành
hình chữ L. Tiếp nữa, Hội đã xây xong nền móng xi măng cốt sắt cho dãy phòng
phía Đông, đối diện và cách với 3 phòng xây đầu tiên bởi chiều dài sân trường.
Trung
Học Tuy Phước có thể coi như trường Trung Học Tỉnh Hạt kiểu mẫu của Bình Định.
Nhờ Hội Phụ Huynh vững mạnh và năng nổ, gồm các ông: Cao Hảo (Hội trưởng), Cao
Xuân Nhàn (Hội phó), ông Bảng (quên họ, Thư ký), Mỹ Dung (Thủ quỹ), Bùi Tố (Ủy
viên kiến thiết)..., đã khéo vận động phụ huynh học sinh đóng góp tiền bạc để
xây cất phòng ốc kịp thời cho nhu cầu phát triển giáo dục tại địa phương. Tính
đến cuối tháng 3 - 1975, Trường đã xây dựng được 18 phòng học [6]. Nếu dãy phòng phía Đông hoàn tất, số phòng sẽ
tăng lên rất nhiều và ngôi trường thành hình chữ U, đáy rộng, trông rất bề thế
và hoành lệ.
Trong
7 niên khóa, từ 1968 - 1975, song song với việc phát triển phòng ốc, Trường mở
dần từ lớp 6 đến lớp 12.
Tính
đến 1-4-1975, Trường có khoảng dưới 40 lớp, ước chừng 2000 học sinh [7]. Trong đó, 10 lớp Sáu, 3 lớp Mười Hai (1A + 1B +
1C). Đây là lớp 12 đầu tiên của Trường, chưa kịp thi lấy bằng Tú tài phổ thông,
tức Tú tài toàn phần, nên không rõ tỷ số thí sinh trúng tuyển.
Trường
có Ban Giám Đốc đầy đủ: Hiệu trưởng Dương Lễ, Giám học Nguyễn Văn Hiệu, Phụ tá
Giám học Tạ Chương Ánh, Tổng Giám thị đầu tiên là Trương Trọng Toại (mất năm
1972), Đặng Văn Hạnh thay thế, Phụ tá Tổng Giám thị Ngô Thanh Nhượng; với một
Ban Giáo Sư gồm 72 người [8].
02 - Trung Học Bồ Đề Nguyên Thiều:
Khoảng
năm 1960, Trường được xây cất tại chân núi Tháp Thị Thiện (Bánh Ít) thuộc ấp Đại
Lễ (Phước Hiệp), trên khu đất do ông Bùi Hàng, Chủ tịch xã Phước Hiệp, cung cấp
cho Tu Viện Nguyên Thiều để thành lập trường. Vì thế, Trường được mang tên
Trung Học Bồ Đề Nguyên Thiều. Khuôn viên trường, ở vào địa thế khoáng đãng và
yên tĩnh, nằm sát cạnh chùa Nguyên Thiều, lưng dựa vào Núi Tháp triền dốc thoai
thoải, mặt tiền quay về hướng đông, nhìn xuống cánh đồng bạt ngàn của xã Phước
Hiệp.
Thế
nhưng, khoảng cuối năm 1964, chiến sự lan tràn, tình hình xã Phước Hiệp trở nên
mất an ninh, Trung Học Bồ Đề Nguyên Thiều phải dời về Vân Hội, cách bến xe Ngã
Ba Diêu Trì chừng 200 mét về hướng tây nam. Khuôn viên trường mới không rộng lắm,
mặt trước giáp đường Liên tỉnh lộ 6 (nay là Tỉnh lộ 638) đi Vân Canh, mặt sau
giáp sông Hà Thanh. Cơ sở trường có 8 phòng học, gồm một dãy nhà do Sư Đoàn
Mãnh Hổ của Đại Hàn xây dựng biếu tặng, một dãy nhà hình chữ L do trường xây cất,
sân trường nằm giữa những dãy nhà.
Niên
khóa 1967 - 1968, trường Trung Học Tư Thục Bồ Đề Nguyên Thiều có 3 Thất, 3 Lục,
2 Ngũ, 1 Tứ và phát triển dần. Đầu thập niên 1970, mở các lớp Đệ Nhị cấp, có
khoảng trên 12 lớp (không nhớ rõ), từ lớp Sáu đến lớp Mười hai [9], với chừng 800 học sinh. Hiệu trưởng là Trần Đình
Phô, Giám học Trần Bùi Thao, Tổng Giám thị Võ Hy.
03 - Trung Học Diêu Trì:
Nhằm
ý hướng của Bộ Quốc Gia Giáo Dục phát triển trường trung học không những ở quận
lỵ, thị tứ, mà còn đến các xã đông dân. Vì thế, năm 1973, trường Trung Học Tỉnh
Hạt Diêu Trì, xã Phước Long, ra đời. Cơ sở trường tọa lạc trên một khoảnh đất rộng,
nguyên là ruộng sâu đuợc đổ đất nâng cao, mặt trước là hướng đông, ngó ra Quốc
lộ 1 (đường mới), mặt sau giáp với địa phận ga Diêu Trì. Đầu tiên xây dựng 4
phòng đúc bê tông, tuy nhiên đang thi công, chưa sử dụng được.
Niên
khóa 1973 - 1974, Trung Học Tỉnh Hạt Diêu Trì mở 2 lớp Sáu, phải dạy tạm ở trường
Tiểu Học Diêu Trì, nằm bên đường lên ga xe lửa và đối diện với chợ Cây Da. Thầy
Lâm Phú vừa làm Hiệu trưởng trường Tiểu học, kiêm nhiệm chức Quản đốc các lớp
trung học.
Niên
khóa 1974 - 1975 phát triển thành 5 lớp, gồm: lớp 6A, 6B, 6C, 7A, 7B; vẫn còn dạy
tạm ở trường Tiểu Học Diêu Trì. Định niên khóa sau, các lớp trung học sẽ dời về
trường mới, Lâm Phú vẫn làm Hiệu trưởng. Trường dự trù phát triển đến lớp 9 để
trở thành trường Trung Học Tỉnh Hạt Đệ Nhất Cấp Diêu Trì. Tính đến ngày 20-2-1975,
trường có 7 Giáo sư, gồm: 3 người chính ngạch, 1 tư nhân dạy giờ và 3 Giáo viên
Tiểu học có Tú tài 2 dạy giờ phụ.
04 - Trung Học Phú Tài:
Ngôi
trường nằm bên đường Quốc lộ 1, tại thị trấn Phú Tài, xã Phước Thạnh; mặt tiền
quay về hướng nam, ngó vô đèo Cù Mông. Khuôn viên trường, mặt hông phía đông
giáp Quốc lộ 1, mặt hông phía tây ngó vào núi. Cũng như trường ở Diêu Trì,
Trung Học Phú Tài ra đời trong thời kỳ Trung học Tỉnh hạt về tới thị tứ và các
xã đông dân, nhưng vì thiếu thông tin, nên không rõ trường này thuộc dạng công
lập bình thường hay tỉnh hạt. Chỉ được biết, tính đến niên khóa 1974 - 1975,
Trung Học Phú Tài chưa có lớp 9, thầy Đài (không nhớ họ) là vị Hiệu trưởng đầu
tiên, cũng là cuối cùng của Trường, trong thời Việt Nam Cộng Hòa.
05 - Trung Học Bồ Đề Hương Quang:
Hệ
thống Tư Thục Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất có mặt hầu hết ở các nơi
đông dân. Ngay tại quận Tuy Phước, có đến 2 trường Trung học, cách nhau không đầy
5 cây số, trường nào cũng đông đúc học sinh.
Trường
Trung Học Bồ Đề Hương Quang tọa lạc trên lô đất nguyên là ruộng sâu được lấp cạn,
nằm sát Quốc lộ 1 (cũ), cách trường Trung Học Tuy Phước chừng 200 mét về hướng
đông nam, và gần cầu Trường Úc. Cơ sở trường là dãy nhà xây, dọc theo chiều sâu
của lô đất, gian trước làm văn phòng, các gian kế tiếp dùng cho phòng học.
Đây
là trường tư thục Đệ Nhất cấp, Hiệu trưởng là Mang Đức Hổ. Niên khóa 1974 -
1975, Trường có 6 lớp [10], gồm 2 lớp Sáu, 2 lớp
Bảy, 1 lớp Tám, 1 lớp Chín, với chừng 350 học sinh.
06 - Trung Học Nam Hòa:
Trường
tọa lạc trên khoảnh đất của hảng dệt Xi- ta (cũ), sát chợ Trường Thuế, thuộc ấp
Hữu Thành, xã Phước Hòa. Trung Học Nam Hòa thành lập năm 1959 là trường tư thục
Đệ Nhất cấp, Hiệu trưởng Lê Tú Oanh. Niên khóa 1959 - 1960, Trường có 2 lớp Đệ
thất, 2 lớp Đệ lục, 1 lớp Đệ Ngũ. Niên khóa sau tăng 1 lớp Đệ ngũ, mở thêm 1 lớp
Đệ tứ [11]. Trường hoạt động trong 6 niên khóa,
đến năm 1965 thì chấm dứt vì chiến sự lan tràn, xã Phước Hòa mất an ninh.
07 - Trung Học Huỳnh Thị Lưu:
Trường
tư Đệ Nhất cấp tại ấp Tùng Giản, gần chợ Gò Bồi xã Phước Hòa, khai giảng 1960,
bế giảng 1965, cũng vì lý do an ninh. Mới đầu có 2 lớp Đệ thất, 2 lớp Đệ lục, 1
lớp Đệ ngũ, niên khóa sau có thêm lớp Đệ tứ.
QUẬN AN NHƠN
: 7 TRƯỜNG
08 - Trung Học Đào Duy Từ:
Nguyên
là trường Trung Học Công Lập An Nhơn, thành lập năm 1961, tại thị trấn Bình Định.
Hiệu trưởng Trung Học Bán Công kiêm nhiệm chức Hiệu trưởng Công Lập. Các lớp
Công Lập mượn phòng học của Trường Bán Công, nhưng Ban Giảng huấn riêng. Đôi
khi Trường Bán Công kẹt phòng, một số giờ Công Lập phải dạy tạm ở trụ sở Hiệp Hội
Nông Dân, đối diện với Trung Học Bán Công.
-
Niên khóa 1961 - 1962, mở 1 lớp Đệ thất, Hiệu trưởng Nguyễn Văn Độ.
-
Niên khóa 1962 - 1963, mở 3 lớp (2 Thất, 1 Lục), Hiệu trưởng Phạm Ngọc Bích.
-
Niên khóa 1963 - 1964, mở 5 lớp (2 Thất, 2 Lục, 1 Ngũ), Hiệu trưởng Trần Quốc Sủng.
-
Niên khóa 1964 - 1965, mở 7 lớp (2 Thất, 2 Lục, 2 Ngũ, 1 Tứ), Hiệu trưởng Lê Nhữ
Tri.
Một
số lớp, học ở dãy nhà trong khu đất đối diện với Quận Đường, số còn lại vẫn dạy
ở Trường Bán Công.
-
Niên khóa 1965 - 1966, mở 8 lớp (2 Thất, 2 Lục, 2 Ngũ, 2 Tứ). Từ niên khóa này,
Trung Học Công Lập tách khỏi Trường Bán Công. Thầy Lê Nhữ Tri vẫn làm Hiệu trưởng
Trường Công Lập, và Trung Học Bán Công có Hiệu trưởng khác.
Trường
Công Lập dời về địa điểm mới là dãy nhà xây, lợp tôn (tôle) dùng làm 3 lớp học
và 1 văn phòng. Khuôn viên trường rất rộng, vuông vức, gần Cửa Tây Thành Bình Định,
nằm đối diện với Trường Tiểu Học và Sân Vận Động An Nhơn. Công việc đầu tiên,
thầy trò phải dùng một buổi học chiều, làm công tác dọn dẹp, lấp các chỗ trũng
và giếng lạn trong khuôn viên trường.
-
Từ niên khóa 1966 - 1967, Trường phát triển nhanh, số phòng không đủ, hai lớp Đệ
tứ vẫn còn dạy ở Trường Bán Công. Sau đó, Bộ Giáo Dục cho xây hai phòng đúc, nằm
sát phía Tây khuôn viên trường, đối diện với dãy phòng phía Đông qua một sân rộng
thênh thang. Trong họa đồ xây cất, phía Tây cũng xây 4 phòng để cân xứng với
phía Đông, nhưng góc Tây Bắc gặp nhà dân lấn chiếm chưa thương lượng được.
-
Niên khóa 1970 - 1971, Trường có 17 lớp gồm: 6/ Sáu, 5/ Bảy, 3/ Tám, 3/ Chín. Bộ
Giáo Dục cử thầy Đào Đức Chương giữ chức Tổng Giám Thị. Thầy Lê Nhữ Tri vẫn làm
Hiệu trưởng. Lúc này, đang xây cất dãy phòng phía Nam, là dãy lớp chính, cũng bằng
vật liệu nặng bê tông cốt sắt [12], viền ba mặt
sân trường thành hình chữ U.
-
Niên khóa 1971 - 1972, Trường tăng 25 lớp vì mở đến 8 lớp Sáu và 3 lớp Mười, gồm:
8/6, 6/7, 5/8, 3/9, 3/10 (2A+ 1B).
Kỳ
thi vào lớp 6, do điều kiện phòng ốc, Trường định mở 6 lớp Sáu như năm trước.
Nhưng theo bảng kê điểm của thí sinh, phần lớn con em của binh sĩ Sư Đoàn 22 chỉ
đỗ ở hạng dự khuyết, khó có cơ hội vào học. Ông Hiệu trưởng Trường Tiểu Học
Quân Đội cam kết, nếu Trung Học Công Lập An Nhơn lấy thêm 2 lớp Sáu nữa để tất
cả thí sinh đỗ dự khuyết của binh sĩ được vào trường công, họ sẽ lo việc đổ đất
nâng cao sân trường.
Nhưng
điều quan trọng, là phải có ngân sách cho việc mở thêm 2 lớp sáu. Ngay ngày hôm
sau, nhà trường cử thầy Đào Đức Chương mang Công Vụ Lệnh, vào Nha Trung Học ở số
7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn, yết kiến ông Giám Đốc Đàm Xuân Thiều, trình
bày sự việc, được sự chấp thuận của Nha Trung Học và cho xúc tiến xây tầng lầu
dãy phòng phía nam.
Trường
chính thức có thêm 2 lớp Sáu. Đoàn xe công binh của Sư Đoàn 22 nối nhau, đổ đất
suốt mấy ngày liền, và dùng cơ giới san bằng phẳng. Từ đó, sân trường trở nên
cao ráo, thầy trò thoát cảnh lội nước khi trời mưa lớn.
Cũng
từ niên khóa này, Trung Học Công Lập An Nhơn được phép mở các lớp Đệ Nhị cấp,
nên bắt đầu có Giám học và Bộ Giáo Dục cử thầy Hồ Sĩ Phùng giữ chức Giám học của
trường.
-
Niên khóa 1972 - 1973, Trường tăng 33 lớp, trong đó có 6 lớp Đệ Nhị cấp. Hiệu
trưởng Lê Nhữ Tri xin chuyển về Trung Học Cường Để Qui Nhơn. Ngày 2-12-1972, Bộ
Giáo Dục ký Sự Vụ lệnh số 3720- GD/NV/2P/SVL, và hợp thức hóa tình trạng hành
chánh bằng Nghị định cử thầy Hồ Sĩ Phùng làm Hiệu trưởng, thầy Đào Đức Chương
giữ chức Giám học [13], thầy Đỗ Hơn lãnh chức Tổng
Giám thị. Từ niên khóa này, Trường được Bộ Giáo Dục cho đổi tên thành Trung Học
Công Lập Đệ Nhị Cấp Đào Duy Từ, thường gọi tắt là Trung Học Đào Duy Từ.
-
Niên khóa 1973 - 1974, Trường có 12/6, 8/7, 8/8, 6/9, 5/10 (2A+ 2B+ 1C), 3/11
(1A+2B), 3/12 (2A+1B). Với 45 lớp, trong đó 11 lớp Đệ Nhị cấp và đủ 3 ban ABC,
Trường được Bộ Giáo Dục cung cấp một Ban Giám đốc đầy đủ (5 người), ngoài 3 người
cũ, còn có thêm thầy Hồ Sĩ Nhơn giữ chức Phụ tá Giám học, và thầy Nguyễn Văn
Nhung làm Phụ tá Tổng Giám thị. Trong niên khóa này, dãy nhà đúc phía bắc, hai
bên cổng vào, tiến hành xây cất.
Theo
Sự Vụ Lệnh số 3614/SHC/BD/NV/SVL ký ngày 24-12-1973 của Chánh Sự Vụ Sở Học
Chánh Bình Định-Qui Nhơn (hiện còn lưu giữ), niên khóa 1973 - 1974 trường Trung
Học Đào Duy Từ có 53 giáo sư dạy thêm giờ phụ. Như vậy, trên thực tế số giáo sư
của Trường phải nhiều hơn gấp một lần rưỡi, vì nhiều vị đã có giờ ở trường tư,
nên chỉ dạy đúng số giờ quy định (mỗi tuần 16 giờ cho Đệ Nhị cấp hay 18 giờ cho
Đệ Nhất cấp), không nhận dạy giờ phụ.
-
Niên khóa 1974 - 1975, Trường phát triển 56 lớp: 14/6, 12/7, 8/8, 8/9, 6/10
(2A+ 3B+ 1C), 5/11 (2A+ 2B+ 1C), 3/12 (1A+ 2B). Dự trù niên khóa tới, Trường
không mở lớp Sáu, như vậy, các lớp Đệ Nhất cấp (lớp 6, 7, 8, 9) sau 4 niên khóa
sẽ không còn nữa. Thay vào đó, Trường phát triển nhanh các lớp Đệ Nhị cấp, nhất
là mở thêm nhiều lớp Mười hai [14]. Tính đến
niên khóa 1974 - 1975, Trung Học Đào Duy Từ lớn hàng thứ hai toàn tỉnh (56 lớp),
chỉ sau Trung Học Cường Để (65 lớp).
Tính
đến 1975, trường có 5 dãy phòng, gồm 2 dãy lầu [15]
và 2 dãy nhà trệt nằm dọc theo 4 cạnh khuôn viên trường, và 1 dãy nhà tôn (3
phòng) được Quân đội hiến tặng khoảng năm 1972, nằm phía sau và thẳng góc với
dãy phòng phía Nam.
09 - Trung Học Bán Công An Nhơn:
Khoảng
năm 1958, dân chúng toàn quận An Nhơn đóng góp xây dựng trường Trung Học Bán
Công. Khởi công xây dựng vào đầu năm 1959, hoàn thành với kinh phí khoảng
1.300.000 đồng [16].
Tòa
nhà được kiến trúc bằng vật liệu nặng, lầu 1 tầng, lợp ngói, gồm 8 phòng học,
hai đầu đều có phòng vệ sinh, mỗi tầng có hành lang rộng nối các phòng. Trường
quay mặt về hướng nam, nằm giữa khoảnh đất vuông vức, rộng độ 2000 m², sát cạnh
phía Tây của Quận Đường An Nhơn. Và bắt đầu hoạt động từ niên khoá 1959- 1960,
được hợp thức hóa do Nghị định số 1184-GD/ NV/ NĐ ký ngày 27-7-1960, bổ túc bởi
giấy phép số 381-GD/ NV/ 5 ký ngày 21- 5- 1962 của Bộ Giáo Dục [17].
Nhằm
giúp đỡ cho những người hiếu học nhưng không có cơ hội vào trường Công lập,
Trung Học Bán Công thu nhận học sinh từ lớp Đệ thất đến Đệ nhị. Muốn nhập học
phải nộp hồ sơ cá nhân (đơn xin, giấy khai sinh, học bạ hay chứng chỉ học
trình) và đóng học phí vào mỗi đầu tháng. Tuy vậy, học phí có phần nhẹ hơn giá
biểu ở trường tư. Đối với học sinh nghèo không nơi nương tựa, có chăm chỉ và hạnh
kiểm tốt được cấp học bỗng, hoặc miễn học phí. Ngoài ra, tu sĩ các tôn giáo vào
học cũng được miễn phí.
Từ
1959 đến 1975, trong 16 niên khóa, Trường trải qua 10 đời Hiệu trưởng: Đầu tiên
là thầy Bùi Văn Lăng, một nhà giáo lão thành, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội
và trứ tác nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Khi Thầy qua đời, từ đấy trường
Trung Học Cường Để cử giáo sư lên kế nhiệm chức vụ này, lần lượt có các thầy:
Dương Văn Lộc, Nguyễn Văn Độ (1961 - 1962), Phạm Ngọc Bích (1962 - 1963), Trần
Quốc Sủng (1963 - 1964), Lê Nhữ Tri (1964 - 1965), Nguyễn Kim Ba (1965 - 1967),
Trần Thúc Bửu (1967 - 1968), Trần Quốc Sủng (1968 - 1973), Lê Văn Dung (1973 -
1975). Các niên khóa từ năm 1961 đến 1965, các vị Hiệu trưởng Trung Học Bán
Công kiêm nhiệm cả chức Hiệu trưởng Trung Học Công Lập An Nhơn. Từ niên khóa
1965 - 1966, hai trường tách ra, Trung Học Cường Để cử thầy Nguyễn Kim Ba làm
Hiệu trưởng Trường Bán Công, thầy Lê Nhữ Tri vẫn giữ Hiệu trưởng Trường Công Lập
[18].
Thành
phần Giáo sư Trung Học Bán Công An Nhơn là sự góp nhặt chọn lọc. Ban Giảng huấn
của Trường, hầu hết là các vị giáo sư chính thức của các trường công lập trong
tỉnh như Trung Học Cường Để (Qui Nhơn), Trung Học Đào Duy Từ (trước là Trung Học
Công Lập An Nhơn), Trung Học Tăng Bạt Hổ (Bồng Sơn sau là Qui Nhơn), và Trung Học
Quang Trung (Bình Khê); được mời đến dạy giờ.
Niên
khóa 1969 - 1970, trường có 13 lớp: 3 Đệ thất, 2 Đệ lục, 2 Đệ ngũ, 2 Đệ tứ, 2 Đệ
tam và 2 Đệ nhị [19]. Từ niên khóa 1972 - 1973,
mở thêm lớp 12, vì bỏ thi Tú tài phần 1; học sinh lớp 11 cuối niên học đủ điểm
trung bình đương nhiên lên lớp 12.
Cũng
năm 1970, trường cất thêm khu nhà văn phòng, nằm phía Tây của sân trường, mặt
ngó qua hông của Quận Đường. Ngôi nhà gồm ba gian: căn ngoài (phía nam và sát
đường) là phòng học vụ, căn giữa làm phòng Giáo sư, căn trong (phía bắc) dành
riêng cho Hiệu trưởng và Giám học. Sau năm 1970, trường có chức Giám học và thầy
Nguyễn Mạo giữ chức vụ này cho đến năm 1975.
10 - Trung Học Giuse An Nhơn:
Từ
cầu Tân An theo Quốc lộ 1 vào thị trấn Bình Định, qua bến xe hơi, gặp tiệm buôn
Thắng Thuận và thấy rạp hát Thanh Châu là rẽ trái. Theo con đường đất rộng, qua
Cửa Đông, bên tay mặt là hướng bắc có khu công sở, lần lượt gặp Chi Cảnh Sát,
Chi Thông Tin (đối diện với Chi Y Tế ), Quận Đường, Trung Học Bán Công, trường
Tiểu Học Quận (đối diện với Trung Học Đào Duy Từ), rồi đến sân Vận Động. Tiếp nữa,
qua Cửa Tây, rẽ mặt, theo đường liên quận Phước Hòa – Nhơn Khánh – Bình Nghi,
nhưng chỉ đi chừng non một cây số, gặp Trung Học Guise An Nhơn, là trường tư Đệ
Nhị cấp. Hiệu trưởng là Sư huynh Clément, Giám học Éma. Cơ sở trường là những
dãy nhà đúc thuộc khu nhà thờ Kim Châu, trước 1975 thuộc xã Nhơn Hưng.
11 - Trung Học Phạm Đăng Hưng:
Trường
Công lập Đệ Nhất cấp tại thôn Bàng Châu xã Đập Đá, thành lập năm 1969 với tên gọi
trường Trung Học Đập Đá. Khoảng niên khóa 1972 - 1973, Trường cải danh Trung Học
Phạm Đăng Hưng. Cơ sở trường là dãy nhà 2 tầng, cất thành chữ L với 15 phòng, gồm
5 phòng cũ và 10 phòng mới. Ban đầu trường chỉ có Hiệu trưởng là Võ Bá Tôn, khi
phát triển đủ số lớp quy định, trường có thêm Tổng Giám thị là Huỳnh Thưởng,
sau nữa có cả Phụ tá Tổng Giám thị là Võ Bá Hà.
Niên
khóa 1969 - 1970, trường chỉ có 2 lớp Đệ thất. Niên khóa 1970 - 1971, phát triển
thành 4 lớp Sáu và 2 lớp Bảy. Niên khóa 1971 - 1972, tăng lên 10 lớp. Niên khóa
1972 - 1973, trường có 16 lớp, gồm: 6/6, 4/7, 4/8, 2/9. Niên khóa 1973 - 1974,
trường có 20 lớp. Và niên khóa 1974 - 1975, trường tăng lên 22 lớp, thu nhận gần
1200 học sinh, gồm: 6/6, 6/7, 6/8, 4/9.
12 - Trung Học Bồ Đề An Nhơn:
Trường
tư thục Đệ Nhất cấp tại cửa Đông thành Bình Định (cũ), tọa lạc trên mô đất cao,
ngó xuống con đường rẽ từ Quốc Lộ 1 dẫn vào Quận Đường An Nhơn. Hiệu trưởng là
Bùi Chí Đống.
13 - Trung Học Tư Thục Tân Phong ở Đập Đá:
Trường
thành lập năm 1963, có 6 phòng xây, lợp ngói, tọa lạc trên khoảnh đất gần trường
Tiểu Học Đập Đá. Ông Nguyễn Hữu Thời vừa là sáng lập trường Tân Phong, vừa là
Hiệu trưởng. Niên khóa 1963 - 1964 có 2 lớp Đệ thất, 1 lớp Đệ lục và 1 lớp Đệ
ngũ. Niên khóa 1964 - 1965, trường phát triển thành 7 lớp, gồm: 3 Thất, 2 Lục,
1 Ngũ, 1 Tứ. Năm 1965, chiến sự lan tràn, Trường giải tán để làm nơi tiếp cư
cho đồng bào các xã ở vùng Đông Bắc quận An Nhơn như Nhơn Hạnh, Nhơn Phong,
Nhơn An đổ về.
14 - Trung Học Bồ Đề Đập Đá:
Cơ
sở trường là dãy nhà lợp ngói có 6 phòng học nằm trước sân vận động Đập Đá, gần
Chi Hội Phật Giáo, tại thôn Phương Danh, do Thượng tọa Thích Đổng Quán sáng lập
năm 1964 và mời thầy Trần Quang Khảo làm Hiệu trưởng.
Niên
khóa đầu, 1964 - 1965, trường Trung Học Bồ Đề Đập Đá mở 6 lớp, gồm 2 lớp Đệ thất,
2 lớp Đệ lục, 1 lớp Đệ ngũ, 1 lớp Đệ tứ. Niên khóa sau, trường phát triển 8 lớp
gồm 2 Thất, 2 lục, 2 Ngũ, 1 Tứ, 1 lớp Đệ tam và hoạt động đến niên khóa 1974 -
1975 mới dứt.
Đào Đức Chương
(Còn
tiếp)
GHI CHÚ
[*]
Bài này đăng trong tập "Ngày Đó Chúng Mình" là Đặc San Cường Để &
Nữ Trung Học năm 2011. Tòa Soạn của Đặc San viết lời giáo đầu như sau:
"LTS:
Đặc san CĐ – NTH 2011 đã rất vinh hạnh giới thiệu bài viết: 'Qui Nhơn, Những
Ngôi Trường Ngày Cũ' của Thầy Đào Đức Chương. Đây là phần giới thiệu 20 ngôi
trường Trung Học tọa lạc tại thị xã Qui Nhơn trong tổng số 49 ngôi trường Trung
Học của toàn tỉnh Bình Định tính đến tháng 4 năm 1975.
ĐS
CĐ NTH 2011 xin tiếp tục giới thiệu 29 ngôi trường Trung Học còn lại của quê
hương Bình Định ngày nào và giống như năm rồi, chúng tôi lại xin phép chọn cho
bài viết một tên gọi nhẹ nhàng, mang tính văn nghệ một chút cho phù hợp với tiểu
mục chung 'Phố Nhỏ, Trường Xưa Thầy Bạn Cũ'. Khi tác phẩm được giới thiệu hoàn
chỉnh, đương nhiên nó sẽ mang đề tựa chính thức, chung cho cả hai bài viết,
thích hợp với một công trình biên khảo: 'Các Trường Trung Học Tỉnh Bình Định'.
Kính mong tác giả thông cảm. Xin cảm ơn.
ĐS
CĐ – NTH." (Sách đã dẫn, trang 64)
Chúng
tôi vẫn giữ tên đầu đề "Bình Định, Những Ngôi Trường Trong Trí Nhớ",
làm đề tựa Phần II cho tác phẩm "Các Trường Trung Học Tỉnh Bình Định",
như là một kỷ niệm 2011 với Tòa Soạn Đặc San Cường Để & Nữ Trung Học.
[1]
Nguyễn Thanh Liêm; Tổng Quát Về Giáo Dục Ở Miền Nam Tự Do; "Giáo Dục Ở Miền
Nam Tự Do Trước 1975", Nhiều tác giả (Santa Ana, Lê Văn Duyệt Foundation ấn
hành và xuất bản), 2006; trang 6.
[2]
Trung Học Bán Công là loại trường phần lớn do dân chúng trong vùng đóng góp tiền
để xây cất cơ sở, nếu thiếu một ít, tỉnh sẽ cung cấp. Về nhân sự, Hiệu trưởng
trường Trung Học Bán Công là một giáo sư trường công lập, được Sở Học chánh hay
Hiệu trưởng Trung học trường tỉnh bổ nhiệm, bằng một Sự vụ lệnh và Tỉnh trưởng
sở tại duyệt khán. Ban giảng huấn do Hiệu Trưởng Bán Công mời: Nếu là giáo sư
tư nhân thì phải làm đơn xin tỉnh bổ nhiệm. Nếu là giáo sư chánh ngạch hay khế
ước, ngoài số giờ quy định ở trường công lập, có thể xin dạy giờ tại Bán Công.
Học sinh chỉ cần làm đơn xin nhập học, kèm theo giấy hộ tịch và chứng chỉ học
trình, phải đóng học phí vào đầu tháng, nhưng giá tiền ít hơn trường tư. Lương
giáo chức được tính theo số giờ dạy trong thời khóa biểu và trả vào mỗi cuối
tháng. Số tiền chi thu của trường, hàng tháng phải lập tờ trình báo cho tỉnh,
quận và Sở Học chánh hoặc Ty Giáo dục biết, không ai được chi tiêu vào việc
riêng.
[3]
Trung Học Tỉnh Hạt là mẫu trường công, được thành lập theo công thức: chính quyền
tỉnh và phụ huynh học sinh đảm nhận việc xây cất trường sở, Bộ Giáo dục lo việc
bổ nhiệm giáo chức và nhân viên. Số lớp của trường phát triển tùy theo khả năng
xây cất phòng ốc của địa phương, Bộ Giáo dục cũng theo đó mà cung cấp nhân sự
và đài thọ lương bỗng. Học sinh muốn vào lớp 6, phải qua kỳ thi tuyển, như các
trường công lập bình thường và quyền lợi ngang nhau.
[4]
Phách là phần giấy ở đầu mỗi bài thi, in mẫu ghi lý lịch của thí sinh (họ và
tên, ngày sinh, nơi sinh, số báo danh). Chủ khảo ghi mật mã vào phách và trên
bài thi, rọc phách trước khi trao bài cho các Giám khảo 1 chấm, rồi Giám khảo 2
chấm lại lần nữa, lấy điểm trung bình cọng. Xong, căn cứ vào mật mã, ráp phách
lại, biết tên mà ghi vào bảng kê điểm của thí sinh.
[5]
Theo Hiệu trưởng Dương Lễ, kinh phí xây dựng Trung Học Tuy Phước do tỉnh đại thọ.
Theo Giám học Đặng Văn Hiệu, tiền xây cất trường hoàn toàn do Hội Phụ huynh lo
liệu. Vào mỗi dịp nghỉ hè, Hội Phụ huynh họp với Ban Giám đốc (sau 1975 gọi là
Ban Giám hiệu) của trường, lên kế hoạch xây cất thêm 2 phòng, phù hợp với sự
gia tăng 3 lớp cho mỗi niên khóa. Hai ý kiến khác biệt đó, có thể hiểu rằng: 3
phòng học đầu tiên do ngân sách tỉnh đài thọ (Lúc đó, trường chỉ có Hiệu trưởng,
chưa có các lớp Đệ Nhị cấp nên không có Giám học. Bởi vậy, Đặng Văn Hiệu không
rõ sự việc thuở ban đầu). Về sau, việc trường ốc hoàn toàn do Hội Phụ huynh đảm
nhận.
[6,
8] Số phòng và số giáo sư của trường, chép theo lời Giám học Đặng Văn Hiệu, qua
điện đàm ngày10-3-2011.
[7]
Nếu căn cứ vào thành phần Ban Giám đốc (đủ 5 người), với 72 giáo sư và có đến
10 lớp Sáu, 3 lớp Mười hai (1974 - 1975), có thể phỏng tính tổng số lớp và sĩ số
toàn trường.
[9,11]
Đầu năm 1970, cải tổ Giáo Dục, vẫn giữ hệ 12 năm, nhưng thay đổi danh xưng các
lớp từ Tiểu học đến hết Trung học, nay được gọi là:
- Tiểu
học: Lớp 1 (Năm), Lớp 2 (Tư), Lớp 3 (Ba), Lớp 4 (Nhì), Lớp 5 (Nhất).
-
Trung học Đệ Nhất cấp: Lớp 6 (Đệ thất), Lớp 7 (Đệ lục), Lớp 8 (Đệ ngũ), Lớp 9
(Đệ tứ).
-
Trung học Đệ Nhị cấp: Lớp 10 (Đệ tam), Lớp 11 (Đệ nhị), Lớp 12 (Đệ nhất).
[10]
Không nhớ rõ tổng số lớp, nhưng biết chắc Trường đã mở đến lớp Chín, vì tác giả
của bài này có dạy giờ ở đó.
[12]
Niên khóa 1970 - 1971 dãy phòng này chỉ xây tầng trệt, nhưng trong thiết kế dự
trù sẽ có tầng lầu.
[13]
Theo Nghị định số 468- GD/NV/2P/NĐ, Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh ký
ngày 21-2-1973.
[14]
Khoảng tháng 2 năm 1975, Ty Giáo Dục tỉnh Bình Định mở cuộc họp, mời các vị Hiệu
trưởng của những Trường Trung Học liên hệ, bàn việc niên khóa tới toàn bộ lớp
12 của hai trường Trung Học Phù Cát và Trung Học Phù Mỹ sẽ chuyển vào học tại
Trung Học Đào Duy Từ Bình Định. Cuối cùng, Phó Ty trưởng Phan Bá Trác đề nghị
thêm, trên nguyên tắc là học sinh lớp 12 của 2 trường trên phải chuyển đến Trường
Đào Duy Từ, nhưng nếu ai có thân nhân ở Qui Nhơn, có thể xin chuyển về Trung Học
Cường Để hay Nữ Trung Học cũng được. Đây là lần họp cuối cùng giữa Ty Giáo Dục
và các Hiệu trưởng Trung học liên hệ, bàn việc chuyển trường cho học sinh lớp
12. Sự kiện lịch sử này, anh Phan Bá Trác (hiện ở Dallas, Texas) cung cấp, và Hồ
Sĩ Phùng (hiện ở Sài Gòn) là cựu Hiệu trưởng Trường Đào Duy Từ xác nhận có.
[15]
Hai dãy lầu, trên thực tế, dãy lầu phía nam đã hoàn tất, còn dãy lầu phía bắc
(nằm hai bên cổng trường), tầng trệt đã xây xong và đưa vào sử dụng, còn tầng lầu
dự trù niên khóa 1975- 1976 sẽ xây tiếp.
[16,
17] V.L. (là tên tác giả viết tắt); Vài Nét Về Bán Công An Nhơn; "Đặc San
Xuân Canh Tuất" (Trung Học Bán Công An Nhơn), 1970; trang 6- 7.
[18]
Không có tài liệu, chỉ viết theo trí nhớ, có thể không chính xác về con số.
[19]
V.L.; Vài Nét Về Bán Công An Nhơn; trang 7.
Một tư liệu tuyệt vời!
Trả lờiXóaPhần I tui đã biết từ gần 3 năm nay, sợ mất tui đã phải copy về lưu trữ ở đây và thấp thỏm theo dõi chờ phần II.
Không ngờ phần II này lại có thêm vài tư liệu của Đỗ Kinh Thi và quangtrungbinhkhe.blogspot.
Vô cùng cảm ơn và hết sức cảm kích trước trước tấm lòng và công phu của Thầy Đào Đức Chương, trong thời gian ngót 10 năm trời để hoàn thành thiên tư liệu này.