Ảnh minh họa |
* Bài văn tế do Quách Tấn soạn cho Bà Quả phụ Tam
Hà - Trần Thiếu Du tế ngày tuần giáp năm (tiểu tường) của chồng, năm 1948.
Cụ
Tam Hà người Thuận Nghĩa, sinh năm Tân Sửu (1901), là con cháu họ Trần ở Bình Khê có mối quan hệ với
triều đại Nhà Tây Sơn. Thời Pháp thuộc tham gia tổ chức cách mạng của Đồng Sỹ
Bình và Bửu Đình, bị bắt giam ở Lao Bảo ngót 10 năm. Năm 1936, Mặt Trận Bình
Dân ở Pháp lên cầm quyền mới được phóng thích. Sau khi ở Lao Bảo về, cụ tham
gia biên tập cho tờ Nhành Lúa, tờ báo chống chính quyền bảo hộ thời Pháp thuộc.
Làm bạn vong niên với nhà thơ Quách Tấn khi nhà thơ về lại quê nhà tránh loạn lạc thời 9 năm kháng chiến.
Theo thi sĩ Quách Tấn, cụ Tam Hà là người đã tạo điều kiện cho ông bước vào thể loại Văn Tế. Và bài Văn nầy được xem như là bài hay nhất trong các bài thuộc thể loại nầy được biết do Quách Tấn chấp bút.
Theo thi sĩ Quách Tấn, cụ Tam Hà là người đã tạo điều kiện cho ông bước vào thể loại Văn Tế. Và bài Văn nầy được xem như là bài hay nhất trong các bài thuộc thể loại nầy được biết do Quách Tấn chấp bút.
Hỡi
ôi,
Sông
gãy cầu ô,
Núi
gầy thân đá !
Cõi
trần hạc mơ màng một giấc, có có không không;
Máy
huyền vi tráo trở trăm chiều, sanh sanh hóa hóa.
Nhớ
lương nhân xưa :
Nghiệp
dõi Châu Trình,
Thú
quen Vương Tạ.
Trên
nước nhà trung hiếu hai vai,
Ngoài
bạn lứa tín thành một dạ.
Gốc
Tử nhớ ngày bóng ngã, miền Hương giang phận xót liễu bồ; (1)
Duyên
Đằng thuận nẻo gió đưa, trời Tượng lĩnh thân nương tòng bá. (2)
Cuộc
phong lãng mười năm về trước, nhắc làm chi cho ruột thêm đau !
Cảnh
gia viên mấy độ gần đây, vun bén lại xem tình chút thỏa.
Ngựa
hồng khớp bạc, hôm sớm đi về;
Ruộng
lúa soi dâu, tháng ngày thong thả.
Nhìn
dưới gối trên mười đông, chữ thập vô dù
thốt, nàng Ban ả Tạ, giá văn chương trước mắt những mơ màng;
Tựa
bên nôi gần ba tháng, câu nhất hữu thường
ngâm, non quế sân hòe, vẻ xiêm áo trong mơ cười hỉ hả.
Lòng
những chắc trời thương đất tưởng, thú phong lưu còn đãi khách hào hoa;
Nào
hay đâu gió tạt sương sa, miền cố thổ bỗng cướp người phong nhã.
Ôi
!
Tuổi
chửa bao lăm,
Trời
sao vội vã !?
Con
thơ vợ dại, biết nhờ ai tủ nắng che mưa !
Mẹ
yếu cha già, đành thiếu kẻ nằm băng khóc giá.
Thảm
thiết bấy phòng khuê đêm tối, giấc bàng hoàng trở dậy hỏi Cha đâu … ?
Não
nùng thay cửa vắng ngày chiều, thân lảo đảo thở ra Trẻ đã … !
Thềm
đãi nguyệt mưa chan khóm trúc, tơi bòi giọt lệ Tương Phi!
Gác
thừa lương dế rỉ hơi sương, vắng vẻ cung đàn Tư Mã!
Ba
thước đất không xa mà cách, nẻo thăm tìm cánh bướm bơ vơ !
Bốn
phương trời về đó là đâu, xe ngày tháng bóng câu giục giã !
Đen
mịt mịt bóng mây trủng quạnh, mới ngày nào tiếng nhạn thương thu !
Xanh
dờn dờn sắc cỏ gò cao, kìa nay đã hồn quyên khóc hạ !
Nhìn
lui ngó tới, cảnh khó làm khuây;
Thương
dập nhớ dồn, tình khôn xiết tả.
Nay
Tuần
tiểu tường vừa đến, chút tinh thành bát nước nén hương,
Miền
âm cảnh có hay, về phù hộ con thơ vợ góa.
Có
thiêng xin chứng.
Án
Mạnh Thị nén hương bát nước, sóng khơi sầu, than đốt tủi, thoảng hơi may tâm sự
luống tơi bời
Đàn
Chu Lang phím trúc đường tơ, thương lạc điệu, nhớ chùng giây, nghe tiếng dế tình
hoài thêm bức rức
Mai
trắng phau phau miền Lộc Đỗng, bẽ bàng thay, ai kẻ thân tri !
Tre
xanh dợn dợn bến Côn Giang, lơ lửng đấy, bóng người tương thức !
Đưa
nếp tử mơ màng còn nhớ lúc, ruột tằm lau chưa ráo lệ năm vần !
Vút
xe tiên thắm thoát đã đầy năm, hồn cuốc lại khêu thêm sầu một bức !
Người
chin suối thấu trời truy ức, bước theo về ngọn gió hiu hiu,
Rượu
ba tuần lóng giọt tinh thành, niềm tưởng tới mùi hương phức phức.
Phục
duy thượng hưởng
(1) Vợ của cụ Tam Hà - Trần Thiếu Du là em gái của
Chí sĩ Đồng Sỹ Bình, người Huế.
(2) Núi An Tượng là một danh sơn ở Bình Định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét