THIỀN SƯ TỊNH GIÁC THIỆN TRÌ VÀ CHÙA LINH PHONG BÌNH ĐỊNH - Bùi Thụy Đào Nguyên Giới Thiệu
Thiền sư Tịnh Giác
Thiện Trì hay Linh Phong thiền sư (? - ?), hiệu là Mộc Y Sơn Ông (Ông Núi mặc
áo vỏ cây), thường được gọi là Ông Núi (Sơn Ông); là một nhà sư Trung Quốc sang
Việt Nam tu trì và lập chùa Linh Phong (còn gọi là chùa Ông Núi) ở núi Bà (Phù
Cát, Bình Định) vào thế kỷ 18.
I. Thân thế và hành trạng:
Khảo cứu trong
"Sơn môn tự phả" và "Pháp tọa thế thứ đồ vị" có ở chùa Linh
Phong trước đây, thì tên tục của Thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì (gọi tắt là thiền
sư) là Lê Ban, người ở kinh đô Bắc Kinh (Trung Quốc). Nhưng theo danh thần Đào
Tấn, tên tục này chưa hẳn đã đúng, vì "biết đâu đây là người lánh đời, giấu
tên” [1].
Cũng theo hai tài
liệu trên, năm Nhâm Ngọ (1702), thời chúa Nguyễn Phúc Chu, thiền sư đến một nơi
có "rừng cây, suối đá sâu thẳm, tịch mịch, vẻ đẹp không gì sánh nổi"
là núi Bà ở vùng miền biển Phương Phi (Phương Thái, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định),
cách thành Trà Bàn (Đồ Bàn) hơn 30 dặm để ẩn tu. Trước thiền sư tu trì trong
hang núi ở phía đông, sau mới đến chừng chừng núi "phát gai dại, vác đá to
xây chỗ này, lấp chỗ kia, kết cỏ làm tranh, dựng lên am nhỏ, đặt tên là chùa
Dũng Tuyền".
Tương truyền, thiền sư lấy vỏ cây làm y phục. Mỗi khi cần vật thực, thiền sư vào núi kiếm củi, bó thành bó to rồi đem xuống núi đặt bên vệ đường, người dân địa phương đem gạo, rau... đổi lấy.
Năm Quý Sửu (1733), chúa Nguyễn Phúc Chú vì mộ đức thiền sư nên ban hiệu là "Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư", và lệnh xây cất lại am Dũng Tuyền thành một ngôi chùa lớn lợp ngói, đặt tên là "Linh Phong Thiền Tự".
Năm Tân Dậu (1741), chúa Nguyễn Phúc Khoát cho mời thiền sư đến phủ chúa (Phú Xuân) để tham vấn học hỏi về Phật pháp. Ở đấy gần một tháng, được chúa rất quý mến, nên khi về thiền sư được ban cho áo cà sa có vòng ngọc và móc vàng, để làm pháp phục.
Thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì viên tịch tại chùa Linh Phong vào thời Tây Sơn
(1778 - 1802), đồ chúng lập tháp thờ ở bên phải chùa vào năm Thái Đức (hiệu của
Nguyễn Nhạc) thứ 8 (1785). Tháp có câu đối chữ Hán:
Quyền thạch tiệm thành sơn, thản thản u trinh
thường lạc thổ;
Chúng lưu năng vi thủy, man man không tế động
đình thiên.
Nghĩa là:
Gom đá dần thành núi, đất Thường Lạc (cõi Phật)
thênh thang tĩnh mịch;
Nhiều dòng tạo nên sông, trời Động Đình bát
ngát mênh mông.
Song có người bảo rằng tháp mới xây dựng sau này để làm kỷ niệm, chớ thật ra thiền sư đã bỏ đi đâu mất kể từ khi Trương Phúc Loan chuyên quyền, và trong nước có loạn...
Theo Đào Tấn, thì thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì có chú giải bộ kinh Pháp hoa và
soạn quyển Ngọc Thạch đồ chương gồm 7 mục: 1/ Ngôi chùa lưng chừng núi. 2/ Thuở
dựng chùa Dũng Tuyền. 3/ Hiệu là Ông núi. 4/ Gặp ta trong đá. 5/ Nơi yên tĩnh.
6./ Tính khí lặng lẽ. 7/ Nhà đá (thạch thất). Ngoài ra, thiền sư "cũng có
làm thơ đề vịnh, dấu bút mấy tờ, nhưng sư ở chùa vì không biết nên lấy số giấy ấy
bồi bức vẽ tượng... rất tiếc thay".
II Linh Phong cổ tự:
Trên sườn phía Đông
Nam núi Bà, cách thành Trà Bàn (Đồ Bàn) hơn 30 dặm; nay thuộc địa phận thôn
Phương Phi (xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định), trước đây có một ngôi
chùa cổ có tên là Linh Phong Thiền Tự (còn gọi là chùa Ông Núi).
Đây là một danh lam của tỉnh, sách Đại Nam nhất thống chí chép:
Chùa Linh Phong ở
thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa vào núi cao (núi Bà), mặt trông ra đầm
Biển cạn (tức đầm Thị Nại), xung quanh có nước suối lượn quanh phong cảnh thật
đẹp.
Sách Đại Nam dư địa chi ước biên chép:
Chùa Linh Phong ở
thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa núi cao, nhìn ra đầm Hạc Hải (tức đầm
Thị Nại), hoa cỏ đẹp tươi. Nên có câu: "Mây lành khắp chốn, chùa Linh
Phong bao bọc hoa tươi", và có câu đối (bằng chữ Hán) dịch ra như
sau:
Bờ biển dấy duyên lành, mưa móc khắp trời nhuần
đẹp đất;
Linh Phong ngưng khí tốt, mây lành mọi chốn phủ
nhân gian.
Như trên đã viết, ban đầu chùa Linh Phong (Bình Định) chỉ là một am tranh, sau mới dựng thành một ngôi chùa lớn lợp ngói, và được chúa Nguyễn Phúc Chú ban tên là Linh Phong Thiền Tự.
Theo "Linh Phong tự ký" của danh thần Đào Tấn, thì thiền sư viên tịch "trong thời loạn lạc" (ám chỉ thời Tây Sơn). Sau đó, các đồ chúng lập tháp thờ ở bên phải chùa vào năm Thái Đức (niên hiệu của Nguyễn Nhạc) thứ 8 (1785).
Đến năm Gia Long thứ
7 (1808), nghe lời Thánh mẫu là Hoàng hậu Hiếu Khương, nhà vua ban lệnh không
cho ai được xâm phạm hay lấy các vật dụng ở chùa trong khi chờ đợi trùng tu.
Tuy nhiên, mãi đến đời Minh Mạng, chùa Linh Phong mới được sửa sang lón.
Sử nhà Nguyễn kể: "một hôm nhà vua bị bệnh, vừa chợp mắt thì mộng thấy một
vị sư già mặc áo vỏ cây đứng bên giường hầu quạt, đến sáng thì khỏi bệnh. Khi
ngự triều, nhà vua đem chuyện ấy hỏi các quan, có người tâu rằng vị sư già đó
có lẽ là Linh Phong thiền sư ở chùa Linh Phong ngày xưa". Vì vậy, năm
1826, nhà vua ban cho chùa này một chiếc áo cà sa mới may để thờ, đồng thời cho
lấy 120 lượng bạc ở trong kho để trùng tu lại chùa [2].
Đến năm 1884 - 1885, dưới triều Kiến Phúc và Hàm Nghi, đại thần Đào Tấn "bỏ quan về Nam, ẩn giấu tích ở chùa Linh Phong để lánh loạn".
Năm 1895, Đào Tấn
được bổ làm Thượng thư bộ Công. vì muốn sửa sang ngôi cổ tự, nên ông đem việc ấy
tâu lên Tây cung (chỉ mẹ vua Thành Thái). Nghe lời mẹ, vua Thành Thái bèn giao
cho tỉnh thần 70 lạng bạc lo việc trùng tu chùa, đồng thời sai hiểu dụ dân
trong tỉnh quyên góp thêm, đến tháng 8 (âm lịch) năm Đinh Dậu (1897) thì hoàn tất,
và quang cảnh chùa lúc bấy giờ rất đẹp. Năm Thành Thái thứ 15 (1903), Đào Tấn
viết "Linh Phong tự ký" nhằm ghi lại "chút chuyện về chùa Linh
Phong để khỏi mất mát".
Sau đó trải qua thời gian và chiến tranh, ngôi cổ tự trên chỉ còn lại cổng tam quan ở mặt đông và một bửu tháp. Năm 2004, một ngôi chùa mới đã dựng trên vị trí của chùa Linh Phong ngày xưa.
III. Thông tin liên quan:
Năm Quý Sửu (1733),
khi chùa Linh Phong được dựng kiên cố lần đầu, chúa Nguyễn Phúc Chú có ban cho
ban chùa một tấm hoành và hai tấm liễn đối. Tấm hoành trên có khắc bốn chữ
"Linh Phong Thiền Tự", phía trái khắc chữ "Vĩnh Khánh, tháng
Giêng năm Quí Sửu", phía mặt có khắc chữ "Quốc Chủ ngự đề".
Trên hai tấm liễn
có khắc câu đối như sau:
Hải ngạn khởi lương nhân, pháp vũ phổ thiên tư
Phật thổ;
Linh Phong ngưng thoại khí, tường vân biến địa
ấm nhân gian.
Nghĩa là:
Bờ biển gặp duyên may, mưa pháp khắp trời thấm
nhuần đất Phật
Núi Linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn che
chở người đời.
Ngoài những câu hát
về chùa Ông Núi (tức chùa Linh Phong) còn lưu truyền trong dân gian, còn có một
số thơ viết về ngôi cổ tự này, trong số đó có thơ của Phan Thanh Giản, Đào Tấn
[9], Võ Kiêm, Quách Tấn... Giới thiệu hai đoạn hát dân gian:
Cây che đá chất chập chồng,
Biển giăng dưới núi chùa lồng trong mây.
Bụi đời không bợn mảy may,
Chút thân rộng tháng dài ngày thảnh
thơi.
Và:
Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thủy
Đủ nhân đủ trí
Thêm vỹ thêm kỳ...
Chùa xưa nhạt bóng tà huy,
Xui lòng non nước nặng vì nước non...
Bùi Thụy Đào Nguyên
Chú thích:
[1] Những chữ nghiêng
trong ngoặc kép là trích trong "Linh Phong tự ký" của Đào Tấn.
[2] Theo “Chính biên”,
tr. 992-993.
Sách tham khảo:
- Quốc
sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện
(bản dịch, trong bài gọi tắt là "Chính biên"). Nhà xuất bản Văn học,
2004.
- Đào Tấn,
"Linh Phong tự ký" (viết năm 1903) in trong Lịch sử Phật giáo Đàng
Trong của Nguyễn Hiền Đức. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr.
111-115.
- Thích
Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành,
1992.
- Quách
Tấn, Bước lãng du. Nhà xuất bản Trẻ, 1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét