Đò chiều còn đó người đưa, Ngâm Ai Tư Vãn người xưa đâu rồi

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

BÀI KÝ GHI CÔNG ĐỨC QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ - QUÁCH TẤN 1961





Ðức Vũ Hoàng,
       Họ Nguyễn, húy Huệ
       Ứng hùng năm Quý Dậu (1753)  [1]
       Quy thần năm Nhâm Tý (1792)  [2]
       Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.
 Niên hiệu Quang Trung, Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế [3].
Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn đã bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành. Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ. [4]
       Vũ Hoàng có ba anh em :
       Anh là Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.
       Em là Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.
       Còn Vũ Hoàng,
Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng kính văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đạt đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt [5].
Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu. Quả là cái thế anh hùng vậy. [6]
Năm Tân Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc, lòng xa gần đều theo, trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.
       Riêng Vũ Hoàng,
Bốn lần bạt thành Gia Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang. [7]
Lại hai phen thảo quân xâm lược :
Năm Giáp Thìn (1784) đánh tan 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong thỉnh tới. [8]
Năm Kỷ Dậu (1789), quét sạch 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân rước về.
       Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.
       Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.
       Công thật cao như Trường Sơn,
       Ân thật sâu như Nam Hải.
Non sông đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị bình  [9]
       Ðắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường.
       Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc.
       Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự.
       Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.  [10]
Nhưng than ôi !
       Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá, [11]
       Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa. [12]
       Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong,
       Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh.
Tuy nhiên,
       Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng,
       Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng mà cao. [13]
Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng :
       “Non Tây áo vải cờ đào
       Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”. [14]
Việt Nam Cọng Hòa
Tiết Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân Bình Khê cẩn ký.
Quách Tấn Phụng thảo


CHÚ GIẢI

[1]  Ứng hùng năm Quý Dậu : Sinh năm Quý Dậu (1753). Hùng theo Hán ngữ là con Gấu. Ứng hùng : con gấu xuất hiện theo mộng triệu. Có lẽ sử dụng theo điển Văn Vương (Cơ Xương) thời Ân Trụ (Trụ Vương - Đắc Kỷ) nằm mộng thấy con cọp có cánh nhảy xổ vào mùng. Triều thần Táng Nghi Sanh giải mộng là Văn Vương sẽ gặp được bậc tôi hiền. Ít lâu sau Văn Vương gặp được Khương Tử Nha (Lã Vọng) có biệt hiệu là Phi Hùng về giúp diệt Trụ, lập nên nhà Chu bên Tàu.
[2]  Quy thần năm Nhâm Tý : Mất năm Nhâm Tý (1792). Sách Nhà Tây Sơn của Quách Tấn và Quách Giao xuất bản sau nầy chép là Thừa long năm Nhâm Tý. Thừa long là cỡi rồng đi. Ngày xưa vua băng hà cũng gọi là thừa long. Có lẽ lấy ý từ Kinh Dịch : “Thời thừa lục long, Du hành bất tức” (Thường cỡi trên sáu con rồng, Đi khắp nơi không ngừng nghỉ).
Có bản lưu hành hiện nay chép Thừa long năm Nhâm Tỵ là chép sai chính tả, bị lỗi morat (morasse) mà không biết, cứ vậy mà nhân bản ra. Theo Lịch pháp của Âm Dương Lịch mà Việt Nam đang sử dụng, Nhâm thuộc Dương Can, ghép theo Địa Chi thì chỉ có Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất. Còn Tỵ thì chỉ ghép được với Âm Can như Ất Tỵ, Đinh Tỵ, Kỷ Tỵ, Tân Tỵ, Quý Tỵ. Quy chiếu năm Âm lịch sang Dương lịch thì năm Nhâm Tý là năm 1792.
[3]  Niên hiệu : là tên gọi cho một triều đại, tên hiệu của ông Vua, theo đó mà tính năm, ghi chép về triều đại ấy. Thời xưa quy ước năm, tháng, ngày, giờ không số hóa như Dương lịch của Tây phương. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (năm 1787) lấy niên hiệu là Quang Trung, năm ấy gọi là Quang Trung năm Mậu Thân, còn gọi là năm Quang Trung nguyên niên, Quang Trung năm thứ 1. Năm Nhâm Tý (1792) vua băng hà gọi là năm Quang Trung thứ 5.
       Miếu hiệu : là tên hiệu truy tôn cho một ông vua khi chết, thờ ở Thái miếu. Khi cúng tế hoặc về sau ghi chép về ông Vua ấy, chỉ được dùng tên gọi nầy. Lê Tư Thành lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Thuận (từ 1460 đến 1469), sau đổi là Hồng Đức (1470 - 1497). Miếu hiệu của ông là Thánh Tông nên khi ghi chép về ông đều ghi là Lê Thánh Tông.
[4]  Châu Hoan : là địa danh, tên gọi của đất Nghệ An ngày xưa. Cũng như vậy, Châu Ái là tên gọi của Thanh Hóa xưa.
       Tiềm long theo Hán ngữ là con Rồng còn ẩn dấu hình tích. Có nghĩa là người tài ba, đức độ còn ẩn dật, chưa xuất hiện giúp đời.
       Tây Kỳ là vùng đất phía Tây. Xưa Chu Văn Vương và sau đó con là Võ Vương (Cơ Phát) nhờ Khương Tử Nha phò trợ, khởi binh ở Tây Kỳ đã diệt được Trụ Vương nhà Ân.
       Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ : Thuở chưa xuất hiện giúp đời, chính nơi đây (Phú Lạc, Kiên Thành) là cơ ngơi, nền móng, đất xuất phát khởi binh, giống như đất Tây Kỳ của Văn Vương và Võ Vương khởi binh diệt Trụ ngày xưa. (Có bản chép Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Sơn cơ chỉ : như vậy là đã chỉnh sửa, sai bổn cũ).
[5]  Đảnh : (còn gọi là đỉnh) là cái vạc lớn bằng đồng, có 3 chân. Cử là đưa lên, nâng lên. Xưa Hạng Võ có sức mạnh nâng được đỉnh đồng nặng cả nghìn cân (cân lạng xưa).
[6]   Bố y : có nghĩa là áo vải. Thân bố y có nghĩa là người không thuộc dòng quyền quý.
       Họ Hạng là Hạng Tịch, tên tự là Võ (Vũ) nên thường gọi là Hạng Võ, còn gọi là Tây Sở Bá Vương, người nước Sở, có sức mạnh cử đỉnh, cùng với Lưu Bang khởi binh diệt nhà Tần.
       Họ Lưu là Lưu Bang, được cho là người sùng thượng, kính văn, đủ trí lược điều khiển được những người dũng mãnh như Hàn Tín, Phàn Khoái, những mưu sĩ như Tiêu Hà, Trần Bình … Sau khi diệt được Tần, tranh chấp thiên hạ cùng với Hạng Võ, lập nên nhà Hán bên Tàu.
       Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu : Tài ba, đức độ của Quang Trung Hoàng đế gồm cả thần lực của Hạng Võ, mưu trí của Lưu Bang.
[7]  Thang : là Thành Thang, người bộ tộc Thương đã khởi binh đánh thắng vua Kiệt tàn bạo của nhà Hạ ở trận Minh Điền, lập nên triều Thương, sau đổi là nhà Ân. Phù Đỗng Thiên Vương của Việt Nam đánh giặc Ân chính là đánh triều đại nầy.
       : là Võ Vương Cơ Phát, dùng Khương Tử Nha phạt Trụ. Trụ Vương tàn bạo của nhà Ân thua trận ở Mục Dã, tự thiêu mà chết. Võ Vương lập nên nhà Chu.
Khi Cao Bá Quát phò Lê Duy Cự chống lại nhà Nguyễn, tương truyền ông có làm câu đề cờ khởi nghĩa :
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điền hữu Võ Thang
Ở Bình Dương và Bồ Bản (kinh đô của nhà Hạ và nhà Ân) không có Vua Nghiêu, Vua Thuấn (2 ông vua được tiếng là nhân nghĩa), thì sẽ có Võ Vương, Thành Thang tạo nên trận Mục Dã và Minh Điền (một trận tiêu diệt nhà Hạ, một trận đánh đổ nhà Ân).
Theo “Trang Tin Về Quê Hương Và Dòng Họ Cao Bá Quát” thì Cờ khởi nghĩa nầy thêu 2 dòng chữ là : “Bình Dương, Bồ Phản vô Nghiêu Thuấn, Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang”
       Cơ nghiệp Võ Thang : là cơ nghiệp tiêu diệt các vương triều bạo ác, dựng nên triều đại mới.
[8]  Năm Giáp Thìn (1784) : Quy chiếu năm Âm lịch sang Dương Lịch, năm Giáp Thìn là năm 1784, năm Ất Tỵ là năm 1785. Nhưng ở đây hiểu là năm 1785. Trận Rạch Gầm Xoài Mút xảy ra vào tháng chạp Âm lịch năm Giáp Thìn, lúc nầy Dương lịch đã là tháng 1 của năm sau, năm 1785.
[9]   Đãng : theo Hán ngữ là rửa gột cho sạch.
       Non sông đãng định : đất nước đã yên ổn, sạch mầm gây loạn.
(Có bản chép : Non sông đã định, như vậy là không đúng, không hợp với văn phong)
[10]  Nhục cống người vàng : Đánh thắng quân Minh, nhưng vua Lê Thái Tổ phải chấp nhận thần phục, hằng năm triều cống tượng đúc bằng vàng cho nhà Minh, gọi là thế mạng cho Liễu Thăng bị chém ở Chi Lăng. Mãi đến năm 1718, Nguyễn Công Hãng đi sứ dùng tài ngoại giao phá bỏ được lệ nầy. Sau khi đánh thắng Tôn Sĩ Nghị, Nhà Tây Sơn bang giao với nhà Thanh, thiên triều Trung Hoa cũng đòi phải cống nộp người vàng. Nhà Tây Sơn cương quyết bác bỏ, không thực hiện.
        Đất Lưỡng Quảng : 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Tàu, nguyên xưa là đất của nước Nam Việt - Triệu Đà. Có thuyết cho rằng Quang Trung Hoàng Đế phái Đại đô đốc Võ Văn Dũng đi sứ xin đất Lưỡng Quảng để đóng đô. Việc chưa kịp xong thì trong nước Quang Trung đã băng hà. Võ Văn Dũng nuốt hận trở về.
[11]  Năm sắc đá : Theo thần thoại Trung Hoa, trụ trời bị gãy, trời thủng lỗ lớn, Nữ Oa bèn rèn đá ngũ sắc để vá lại lỗ thủng ấy.
       Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá : Chí lớn đã trui rèn mà việc lại chưa kịp làm xong.
[12]  Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa : Trên mây chin tầng Người đã cỡi rồng đi biền biệt.
[13]  Núi Trưng : tên chữ là Trưng Sơn, là tổ sơn phía Bắc ngạn Sông Côn,  chỗ bên nầy lăng Mai Xuân Thưởng ngó qua. Người địa phương gọi là Hòn Sung, Hòn Mả Mẹ Chàng Lía. Đối trĩ với nó là Hợi Sơn, còn gọi là Hòn Dũng (Vũng) ở Đồng Vụ. Hòn Mả Mẹ Chàng Lía cùng với Hòn Dũng như là 2 trụ biểu của tấm bình phong Hoành Sơn (Núi Ngang có Lăng Mai Xuân Thưởng). Dân văn chương gọi Trưng Sơn là Hòn Bút (chóp núi nhọn như ngọn bút lông viết chữ Hán), gọi Hợi Sơn là Hòn Nghiên (trên núi có vũng nước quanh năm, biểu tượng của nghiên mực).
       Núi Tượng : Núi An Tượng, một danh sơn của Bình Định, phía Nam ngạn sông Côn, nằm phía dưới Tây Sơn Hạ, thuộc Cù Lâm, An Nhơn.
[14]  Câu ca xuất phát từ bài Ai Tư Vãn của Ngọc Hân công chúa khóc Quang Trung có câu :
       Mà nay áo vải cờ đào
       Giúp dân dựng nước xiết bao công trình



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét