Ðức Vũ Hoàng,
Họ Nguyễn, húy Huệ
Ứng hùng năm Quý Dậu (1753) [1]
Quy thần năm Nhâm Tý (1792) [2]
Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.
Niên hiệu Quang Trung, Miếu hiệu Thái Tổ
Vũ Hoàng Ðế [3].
Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây
Sơn đã bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành. Buổi tiềm long, chính
nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ. [4]
Vũ Hoàng có ba anh em :
Anh là Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, thiệp
thế đa mưu.
Em là Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, thành
tín nhân hậu.
Còn Vũ Hoàng,
Sức mạnh cử đảnh, tài
dụng binh như thần, lại sùng thượng kính văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đạt
đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn
kiệt [5].
Thân bố y, tay trường
kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu. Quả là cái thế anh hùng vậy. [6]
Năm Tân Mão (1771),
thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em
Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn
làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc, lòng xa gần đều theo, trăm trận trăm
thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.
Riêng Vũ Hoàng,
Bốn lần bạt thành Gia
Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non
sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang. [7]
Lại hai phen thảo quân xâm lược :
Năm Giáp Thìn (1784) đánh
tan 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong thỉnh tới. [8]
Năm Kỷ Dậu (1789), quét
sạch 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân rước về.
Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.
Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.
Công thật cao như Trường Sơn,
Ân thật sâu như Nam Hải.
Non sông đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị
bình [9]
Ðắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường.
Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc.
Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự.
Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa
xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng
Quảng. [10]
Nhưng than ôi !
Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá, [11]
Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.
[12]
Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong,
Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường
thịnh.
Tuy nhiên,
Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời
mà sáng,
Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng
mà cao. [13]
Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng :
“Non Tây áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”. [14]
Việt Nam Cọng Hòa
Tiết Trọng Xuân năm
Tân Sửu (1961)
Nhân dân Bình Khê cẩn
ký.
Quách Tấn Phụng thảo
CHÚ
GIẢI
[1] Ứng
hùng năm Quý Dậu :
Sinh
năm Quý Dậu (1753). Hùng theo Hán ngữ là con Gấu. Ứng hùng : con gấu xuất hiện
theo mộng triệu. Có lẽ sử dụng theo điển Văn Vương (Cơ Xương) thời Ân Trụ (Trụ
Vương - Đắc Kỷ) nằm mộng thấy con cọp có cánh nhảy xổ vào mùng. Triều thần Táng
Nghi Sanh giải mộng là Văn Vương sẽ gặp được bậc tôi hiền. Ít lâu sau Văn Vương
gặp được Khương Tử Nha (Lã Vọng) có biệt hiệu là Phi Hùng về giúp diệt Trụ, lập
nên nhà Chu bên Tàu.
[2] Quy
thần năm Nhâm Tý : Mất
năm Nhâm Tý (1792). Sách Nhà Tây Sơn của Quách Tấn và Quách Giao xuất bản sau nầy
chép là Thừa long năm Nhâm
Tý.
Thừa long là cỡi rồng đi. Ngày xưa vua băng hà cũng gọi là thừa long. Có lẽ lấy
ý từ Kinh Dịch : “Thời thừa lục long, Du hành bất tức” (Thường cỡi trên sáu con
rồng, Đi khắp nơi không ngừng nghỉ).
Có bản
lưu hành hiện nay chép Thừa
long năm Nhâm Tỵ là chép sai chính tả, bị lỗi morat (morasse) mà không biết, cứ vậy mà nhân bản
ra. Theo Lịch pháp của Âm Dương Lịch mà Việt Nam đang sử dụng, Nhâm thuộc Dương Can, ghép theo Địa Chi thì chỉ có Nhâm Tý, Nhâm
Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất. Còn Tỵ thì chỉ ghép được với Âm Can như Ất Tỵ, Đinh Tỵ, Kỷ Tỵ, Tân Tỵ, Quý Tỵ. Quy
chiếu năm Âm lịch sang Dương lịch thì năm Nhâm Tý là năm 1792.
[3] Niên hiệu : là tên gọi cho một
triều đại, tên hiệu của ông Vua, theo đó mà tính năm, ghi chép về triều đại ấy.
Thời xưa quy ước năm, tháng, ngày, giờ không số hóa như Dương lịch của Tây
phương. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (năm 1787) lấy niên hiệu là
Quang Trung, năm ấy gọi là Quang Trung năm Mậu Thân, còn gọi là năm Quang Trung
nguyên niên, Quang Trung năm thứ 1. Năm Nhâm Tý (1792) vua băng hà gọi là năm
Quang Trung thứ 5.
Miếu hiệu : là
tên hiệu truy tôn cho một ông vua khi chết, thờ ở Thái miếu. Khi cúng tế hoặc về
sau ghi chép về ông Vua ấy, chỉ được dùng tên gọi nầy. Lê Tư Thành lên ngôi lấy
niên hiệu là Quang Thuận (từ 1460 đến 1469), sau đổi là Hồng Đức (1470 - 1497).
Miếu hiệu của ông là Thánh Tông nên khi ghi chép về ông đều ghi là Lê Thánh
Tông.
[4] Châu Hoan :
là địa danh, tên gọi của đất Nghệ An ngày xưa. Cũng như vậy, Châu Ái là tên gọi
của Thanh Hóa xưa.
Tiềm long
theo Hán ngữ là con Rồng còn ẩn dấu hình tích. Có nghĩa là người tài ba, đức độ
còn ẩn dật, chưa xuất hiện giúp đời.
Tây Kỳ là vùng đất phía
Tây. Xưa Chu Văn Vương và sau đó con là Võ Vương (Cơ Phát) nhờ Khương Tử Nha
phò trợ, khởi binh ở Tây Kỳ đã diệt được Trụ Vương nhà Ân.
Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ
cơ chỉ : Thuở chưa
xuất hiện giúp đời, chính nơi đây (Phú Lạc, Kiên Thành) là cơ ngơi, nền móng, đất
xuất phát khởi binh, giống như đất Tây Kỳ của Văn Vương và Võ Vương khởi binh
diệt Trụ ngày xưa. (Có bản chép “Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây
Sơn cơ chỉ” : như vậy là đã chỉnh sửa, sai bổn
cũ).
[5]
Đảnh : (còn gọi là đỉnh) là cái vạc lớn bằng đồng, có 3 chân. Cử
là đưa lên, nâng lên. Xưa Hạng Võ có sức mạnh nâng được đỉnh đồng nặng cả nghìn
cân (cân lạng xưa).
[6]
Bố y : có nghĩa là áo vải. Thân bố y có nghĩa là người không thuộc
dòng quyền quý.
Họ Hạng là Hạng Tịch, tên tự là Võ (Vũ) nên
thường gọi là Hạng Võ, còn gọi là Tây Sở Bá Vương, người nước Sở, có sức mạnh
cử đỉnh, cùng với Lưu Bang khởi binh diệt nhà Tần.
Họ Lưu là Lưu Bang, được cho là người sùng thượng, kính văn, đủ trí
lược điều khiển được những người dũng mãnh như Hàn Tín, Phàn Khoái, những mưu
sĩ như Tiêu Hà, Trần Bình … Sau khi diệt được Tần, tranh chấp thiên hạ cùng với
Hạng Võ, lập nên nhà Hán bên Tàu.
Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ
Lưu : Tài ba, đức độ của Quang Trung
Hoàng đế gồm cả thần lực của Hạng Võ, mưu trí của Lưu Bang.
[7]
Thang : là Thành Thang, người bộ tộc Thương đã khởi binh đánh thắng
vua Kiệt tàn bạo của nhà Hạ ở trận Minh Điền, lập nên triều Thương, sau đổi là
nhà Ân. Phù Đỗng Thiên Vương của Việt Nam đánh giặc Ân chính là đánh triều đại
nầy.
Võ : là Võ Vương Cơ Phát, dùng Khương Tử
Nha phạt Trụ. Trụ Vương tàn bạo của nhà Ân thua trận ở Mục Dã, tự thiêu mà
chết. Võ Vương lập nên nhà Chu.
Khi Cao Bá Quát phò Lê Duy Cự chống
lại nhà Nguyễn, tương truyền ông có làm câu đề cờ khởi nghĩa :
Bình
Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục
Dã, Minh Điền hữu Võ Thang
Ở
Bình Dương và Bồ Bản (kinh đô của nhà Hạ và nhà Ân) không có Vua Nghiêu, Vua
Thuấn (2 ông vua được tiếng là nhân nghĩa), thì sẽ có Võ Vương, Thành Thang tạo
nên trận Mục Dã và Minh Điền (một trận tiêu diệt nhà Hạ, một trận đánh đổ nhà
Ân).
Theo
“Trang Tin Về Quê Hương Và Dòng Họ Cao Bá Quát” thì Cờ khởi nghĩa nầy thêu 2
dòng chữ là : “Bình Dương, Bồ Phản vô Nghiêu Thuấn,
Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang”
Cơ
nghiệp Võ Thang : là cơ nghiệp tiêu diệt các vương triều bạo
ác, dựng nên triều đại mới.
[8] Năm Giáp Thìn (1784) : Quy chiếu năm Âm lịch
sang Dương Lịch, năm Giáp Thìn là năm 1784, năm Ất Tỵ là năm 1785. Nhưng ở đây hiểu là năm 1785. Trận Rạch Gầm Xoài Mút xảy ra vào tháng chạp Âm lịch
năm Giáp Thìn, lúc nầy Dương lịch đã là tháng 1 của năm sau, năm 1785.
[9] Đãng :
theo Hán ngữ là rửa gột cho sạch.
Non
sông đãng định : đất nước đã yên ổn, sạch mầm gây loạn.
(Có
bản chép : Non
sông đã định, như vậy là không đúng, không hợp với văn
phong)
[10] Nhục cống người vàng :
Đánh thắng quân Minh, nhưng vua Lê Thái Tổ phải chấp nhận thần phục, hằng năm
triều cống tượng đúc bằng vàng cho nhà Minh, gọi là thế mạng cho Liễu Thăng bị
chém ở Chi Lăng. Mãi đến năm 1718, Nguyễn Công Hãng đi sứ dùng tài ngoại giao
phá bỏ được lệ nầy. Sau khi đánh thắng Tôn Sĩ Nghị, Nhà Tây Sơn bang giao với
nhà Thanh, thiên triều Trung Hoa cũng đòi phải cống nộp người vàng. Nhà Tây Sơn
cương quyết bác bỏ, không thực hiện.
Đất
Lưỡng Quảng : 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Tàu,
nguyên xưa là đất của nước Nam Việt - Triệu Đà. Có thuyết cho rằng Quang Trung
Hoàng Đế phái Đại đô đốc Võ Văn Dũng đi sứ xin đất Lưỡng Quảng để đóng đô. Việc
chưa kịp xong thì trong nước Quang Trung đã băng hà. Võ Văn Dũng nuốt hận trở về.
[11] Năm sắc đá : Theo
thần thoại Trung Hoa, trụ trời bị gãy, trời thủng lỗ lớn, Nữ Oa bèn rèn đá ngũ
sắc để vá lại lỗ thủng ấy.
Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá : Chí lớn đã trui rèn mà việc lại
chưa kịp làm xong.
[12] Chín
tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa
: Trên mây chin tầng Người đã cỡi rồng đi biền biệt.
[13]
Núi Trưng
: tên chữ là Trưng Sơn, là tổ sơn phía Bắc ngạn Sông Côn, chỗ bên nầy lăng Mai Xuân Thưởng ngó qua.
Người địa phương gọi là Hòn Sung, Hòn Mả Mẹ Chàng Lía. Đối trĩ với nó là Hợi
Sơn, còn gọi là Hòn Dũng (Vũng) ở Đồng Vụ. Hòn Mả Mẹ Chàng Lía cùng với Hòn
Dũng như là 2 trụ biểu của tấm bình phong Hoành Sơn (Núi Ngang có Lăng Mai Xuân
Thưởng). Dân văn chương gọi Trưng Sơn là Hòn Bút (chóp núi nhọn như ngọn bút lông
viết chữ Hán), gọi Hợi Sơn là Hòn Nghiên (trên núi có vũng nước quanh năm, biểu
tượng của nghiên mực).
Núi Tượng : Núi An Tượng, một danh sơn của
Bình Định, phía Nam ngạn sông Côn, nằm phía dưới Tây Sơn Hạ, thuộc Cù Lâm, An
Nhơn.
[14]
Câu ca xuất phát từ bài Ai Tư Vãn của Ngọc Hân công chúa khóc Quang
Trung có câu :
Mà
nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét