Đò chiều còn đó người đưa, Ngâm Ai Tư Vãn người xưa đâu rồi

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

BÌNH ĐỊNH - NHỮNG NGÔI TRƯỜNG NGÀY CŨ (4)


QUẬN BÌNH KHÊ : 4 TRƯỜNG

15 - Trung Học Quang Trung:

Vị trí trường nằm phía Tây Bắc thị trấn Phú Phong, cách quốc lộ 19 chừng 200 mét về hướng bắc, cách Quận Đường chừng 1 km về hướng tây, sát với ngã ba sông. Nơi đây, sông Đá Hàng (tên một phụ lưu của sông Côn, phát nguyên từ vùng núi An Tượng ở Vân Canh chảy về hướng bắc, vòng qua Hầm Hô rồi đổ ra Phú Phong theo hướng tây nam – đông bắc), gặp sông Hà Giao (tên của sông Côn ở đầu nguồn) chảy từ tây bắc xuống đông nam. Khuôn viên trường là một phần đất của hãng Delignon (công ty dệt tơ tằm của Pháp ngày xưa), mặt tiền (hướng bắc) và mặt hông (hướng tây) ngó ra sông nên cảnh trí rất thơ mộng.


Trung Học Quang Trung năm 1972

Niên khóa đầu tiên (1964 - 1965), Trung Học Quang Trung chỉ có 2 lớp Sáu và 1 lớp Bảy. Trường sở là dãy nhà trệt 4 phòng, nằm phía đông của khuôn viên, đối diện với trường Tiểu Học Quận Bình Khê. Vị Hiệu trưởng trường Tiểu Học này là thầy Nguyễn Đồng, kiêm nhiệm luôn cả chức Hiệu trưởng Trung Học, cho đến năm 1968. [Niên khóa đầu tiên của Trung Học Quang Trung 1965 - 1966, trường tuyển 2 lớp Đệ Thất, sau gọi là lớp 6. Cơ sở Trường chưa có, phải học nhờ ở Trường Tiểu Học Quận Lỵ Bình Khê - QuangTrung BinhKhe chú dẫn]

Niên khóa 1968 - 1969, Trường xây dãy lầu 6 phòng học và 2 phòng hành chánh, nằm giữa sân trường, mặt ngó ra sông. Niên khóa 1971 - 1972, trường xây thêm dãy lầu 6 phòng học, nằm phía tây sân trường. Lúc này, cơ sở trường có ba dãy nhà gồm 18 phòng học, liên kết thành hình chữ môn. Ngoài ra, còn một dãy nhà trệt, nằm bên tay phải cổng vào, gồm 3 phòng làm việc, dành cho hiệu trưởng, giám học và giáo sư. Nhận thấy dãy phòng học ở phía đông là nhà trệt không cân xứng nên trường định sẽ phá bỏ để thay thế bằng dãy lầu. Ngoài ra trường cũng đã mua đủ kính, dự định hè năm 1975, sẽ thay thế toàn bộ cửa sổ lá sách các phòng, bằng cửa kính cho sáng sủa và ấm áp, trong mùa đông gió bấc phải đóng kín cửa.

Trường Trung Học Quang Trung, lúc đầu chỉ có 6 giáo sư, với 3 lớp đệ nhất cấp, trải qua 11 niên khóa, Trường phát triển đến 36 giáo sư chính thức (không kể giáo sư phụ dạy giờ), với 32 lớp gồm: 2 lớp Mười hai (mới có trong niên khóa 1974 - 1975), 3 lớp Mười một, 4 lớp Mười, 5 lớp Chín, 5 lớp Tám, 6 lớp Bảy và 7 lớp Sáu.

 Giáo Sư Trung Học Quang Trung năm 1974

Thành phần Ban Giám Đốc của trường, Hiệu trưởng từ 1964 - 1968 là thầy Nguyễn Đồng, từ 1968 - 1975 là thầy Trần Văn Thái. Giám học là thầy Trần Cẩm Tú từ 1972 - 1975. Tổng Giám thị, từ 1968 - 1972 là thầy Nguyễn Thao, từ 1972 - 1975 thầy Trương Di. Dự trù niên khóa 1975 - 1976, trường sẽ có đủ số lớp quy định để Bộ Quốc Gia Giáo Dục bổ nhiệm thêm chức Phụ tá Giám học và Phụ tá Tổng Giám thị.

16 - Trung Học Bồ Đề Bình Khê:

Trường tư thục Đệ Nhất cấp do Giáo Hội Phật Giáo Bình Khê thành lập năm 1964. Ngày khởi công xây cất có Thượng tọa Thích Tâm Châu đến dự và đặt viên đá đầu tiên. Trường sở gồm 4 phòng trệt, ngó ra quốc lộ 19 và nằm ngay trước mặt Quận Đường Bình Khê. Niên khóa đầu tiên (1964 - 1965) có 6 lớp gồm 2 lớp Đệ thất, 2 lớp Đệ lục, 1 lớp Đệ ngũ, 1 lớp Đệ tứ. Từ năm 1964 - 1966, thầy Quách Vĩnh Khương làm Hiệu trưởng, từ 1966 - 1975 thầy Nguyễn Minh đảm nhận chức vụ này.

17 - Trung Học Tiến Đức:

Trường Tư thục Đệ Nhất cấp do ông Huỳnh Sô và một số giáo sư ở địa phương sáng lập, khai giảng từ niên khóa 1963 - 1964 có 2 lớp Đệ thất và 1 lớp Đệ lục. Ban điều hành mướn 2 căn phố liền nhau để làm phòng học, cơ sở nằm trên con đường nối liền Quốc lộ 19 đến Điện thờ Tây Sơn. Trường chỉ hoạt động trong hai niên khóa và Hiệu trưởng là Huỳnh Sô.

18 - Trung Học Trần Quang Diệu:

Nguyên là trường Tiểu Học xã Bình Thành, nằm trên địa bàn của thôn Kiên Mỹ, gần Điện Tây Sơn. Niên khóa 1971 - 1973, nâng cấp thành trường Công lập Đệ Nhất cấp, thầy Đặng Thành làm Hiệu trưởng kiêm nhiệm cả tiểu học lẫn trung học. Niên khóa 1974 - 1975 phát triển đến lớp 9.


QUẬN PHÙ CÁT : 3 TRƯỜNG

19 - Trung Học Phù Cát:

Trường Công lập Đệ Nhị cấp, được thành lập từ niên khóa 1967 - 1968, mới đầu chỉ có 2 lớp Đệ thất. Đến niên khóa 1974 - 1975, qua 8 năm hoạt động, Trường phát triển đến mức mở được 15 lớp Sáu (niên khóa trước có 7 lớp Sáu), và 4 (?) lớp Mười hai (2A, 2B). Cũng như Trung Học Tuy Phước, học sinh lớp 12 của Trường này, không kịp thi lấy bằng Tú tài phổ thông trong niên khóa cuối cùng.

Trường có 3 dãy nhà trệt vách gạch, lợp ngói, liên kết thành hình chữ U. Về nhân sự điều hành, lúc mới thành lập, ông Bành Quang Khánh tạm thời xử lý thường vụ trong vài tháng. Cũng ngay trong niên học đầu, Bộ Giáo Dục cử thầy Nguyễn Văn Mẹo giữ chức Hiệu trưởng (1967 - 1975). Rồi theo đà số lớp gia tăng nhanh chóng, Bộ Giáo Dục đã cử thầy Trần Văn Thương làm Giám học, thầy Cao Công Điện Phụ tá Giám học, thầy Đặng Hồng Sanh Tổng Giám thị và thầy Huỳnh Văn Phẩm Phụ tá Tổng Giám thị.

20 - Trung Học Giuse Phù Cát:

Trường Trung học Tư thục Đệ Nhất cấp, Giám học (?) Trần Long Bá.

21 - Trung Học Bồ Đề Phù Cát:

Tại xã Cát Nhơn, có trường Trung học Tư thục Đệ Nhất cấp của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, do Thượng tọa Thích Nguyên Trí làm Hiệu trưởng.

QUẬN PHÙ MỸ : 4 TRƯỜNG

22 - Trung Học Lê Chất:


Tháng 10 - 1964, thành lập trường Trung Học Công Lập Phù Mỹ. Khai giảng niên khóa đầu tiên (1964 - 1965), trường mở 1 lớp Đệ thất, thầy Nguyễn Văn Tân làm Hiệu Trưởng, và mượn phòng của trường Tiểu Học Phù Mỹ để giảng dạy.

Niên khóa 1967 - 1968, Trường có 4 lớp: 1 Thất, 1 Lục, 1 Ngũ, 1 Tứ. Giữa năm học, ông Nguyễn Văn Tân nhận lệnh nhập ngũ. Ngày 8-1-1968, thầy Trương Quang Tấn về làm Xử lý thường vụ. Cũng trong niên khóa này trường Trung học dời về địa điểm mới, ở cây số 1, cách Quận Đường 1 km về hướng Nam. Trường mới, có 3 phòng xây lợp tôn, nằm về phía Bắc của khuôn viên rộng hơn nửa mẫu tây, ở bên trái Quốc lộ 1 nếu từ Nam ra Bắc. Tháng 3-1968, Cơ Quan Viện Trợ Hoa Kỳ cho Trường 4 phòng đúc, nhưng họ chỉ cung cấp sắt cây, 200 bao ciment và 200 tấm tôn. Sau khi chiết tính, Trường chỉ đủ xây 2 phòng và đóng trần cho 3 phòng cũ. Phải bán hết sắt với một số ciment, để mua gạch, cát và trả tiền công thợ.

Niên khóa 1968 - 1969, trường tăng 6 lớp, vì thu nhận đến 3 lớp Đệ thất.

Năm khóa 1969 - 1970, trường có đến 11 lớp, ngoài 3 Thất chính thức, Trường còn nhận thêm 3 lớp Thất dự khuyết. Mỗi học sinh dự khuyết phải đóng cho Hội Phụ Huynh 10.000$ để xây cổng trường và bờ rào. Đáp ứng với đà gia tăng sĩ số, Bộ Giáo Dục cho xây 6 phòng lợp ngói. Dãy lớp này, nhà thầu Nguyễn Hợp thi công, ở phía Nam và đối diện với 5 phòng phía Bắc qua một sân trường rộng. Bấy giờ trường có 9 phòng học và 2 làm văn phòng.

Giữa năm 1970, Nguyễn Văn Tân trở lại Trường và làm Hiệu trưởng trong hai niên khóa (1970 - 1972). Ông được thuyên chuyển vào Sài Gòn, bàn giao chức vụ Hiệu trưởng cho Trương Quang Tấn theo Sự vụ lệnh của Bộ Giáo Dục. Sau đó, thầy Tấn vào Sài Gòn học khóa Quản trị Học đường và được hợp thức hóa bằng Nghị định.

Niên khóa 1972 - 1973, Trường mở một lớp 10 ban B, và xin Bộ Giáo Dục cấp giấy phép trường Đệ Nhị cấp.

Niên khóa 1973 - 1974, Trường có 23 lớp, gồm: 9 lớp Sáu, 6 lớp Bảy, 4 lớp Tám, 2 lớp Chín, 1 lớp 10B, 1 lớp 11B. Bộ Giáo Dục cử thầy Trần Đại Nghĩa làm Tổng Giám Thị bằng Sự vụ lệnh và hợp thức hóa bằng Nghị định. Đồng thời Bộ cũng chi ngân sách cho xây cất dãy phòng phía tây bằng xi măng cốt sắt. Đợt đầu xây 4 phòng trệt, giữa có gian cầu thang rộng, tiện việc lên xuống nhiều người cùng lúc.


Niên khóa 1974 - 1975, Trường phát triển 32 lớp, gồm: 9 lớp Sáu, 9 lớp Bảy, 6 lớp Tám, 4 lớp Chín, 2 lớp 10 (1A+ 1B), 1 lớp 11B, 1 lớp 12B. Dãy 8 phòng ở phía Tây, tiếp tục xây 4 phòng lầu, nhưng mới thực hiện được 3 phòng, thì chấm dứt. Và đây là niên khóa cuối cùng của trường Trung Học Công Lập Đệ Nhị Cấp Lê Chất, trong khi học sinh lớp 12B, sau 7 năm theo học bậc trung học, chưa kịp thi lấy bằng Tú tài phổ thông.

23 - Trung Học Toàn Mỹ:

Trường Trung học tư thục Đệ Nhất cấp của Công Giáo, thành lập từ niên khóa 1960- 1961, Linh mục Hóa làm Hiệu Trưởng. Trường xây cất bằng vật liệu kiên cố, có lầu và tọa lạc trên một khu đất rộng, ở thôn An Hoan xã Mỹ Chánh. Cảnh trường rất nên thơ, nằm cạnh khúc sông đẹp, gần bến ghe bầu, buôn bán tấp nập. Nhờ có trường Trung Học Toàn Mỹ, con em các gia đình nghèo ở các xã Mỹ Chánh, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Cát, Mỹ Tài... đỡ phần thất học vì không đủ đài thọ đi xa để theo học ở Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn hay Trung Học Cường Để Qui Nhơn.

24 - Trung Học Đồng Công ở Nhà Đá:

Trường Trung học tư thục Đệ Nhất cấp của Giáo Hội Công Giáo, ở xã Mỹ Hiệp, thành lập từ niên khóa 1964 - 1965.

25 - Trung Học Bồ Đề Phù Mỹ:

Bồ Đề Phù Mỹ là Trung học Tư thục Đệ Nhất cấp của Giáo Hội Phật Giáo, ở quận lỵ, thành lập khoảng năm 1964 và phát triển đến lớp Đệ tứ.


QUẬN AN TÚC : 1 TRƯỜNG

26 - Trung Học Đề Thám:

An Túc nguyên là quận Tân An của tỉnh Pleiku, được sáp nhập vào tỉnh Bình Định, đổi tên là quận An Túc theo Sắc lệnh số 63-NV của Tổng Thống VNCH ký ngày 13-3-1959 [20]. Ngoài ra còn có thêm 3 xã K. Gol, Kon Pong, Kon Vong của tỉnh Kon Tum cũng được sáp nhập vào quận An Túc.

Giữa thập niên 1960, dân cư quận An Túc trở nên đông đúc vì Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Không Vận Kỵ Binh Mỹ đóng ở đây, các dịch vụ buôn bán và quán xá mỗi ngày một nhiều. Thêm nữa, số người ở An Lão, Hoài Ân, Tam Quan, Vĩnh Thạnh tản cư lên đây càng ngày càng đông. Trước nhu cầu giáo dục, năm 1967 Trung Học Đề Thám được thành lập ngay tại thị trấn, sát sân Vận động và cách Quận Đường chừng 200 mét. Trường sở gồm 3 dãy nhà liên kết hình chữ U, đáy là khu nhà đúc 2 tầng có 8 phòng học và một cầu thang rộng ở giữa. Hai dãy nhà hai bên, một dãy dùng làm khu văn phòng, dãy đối diện dùng làm phòng hội và thư viện, nhưng ngày thường vẫn dùng làm phòng học.

Vị Hiệu trưởng đầu tiên là Nguyễn Đình Hà, kế đến Trần Hữu Lam, sau rốt là Đỗ Công Tiếp. Những năm cuối cùng, Trường mới có Tổng Giám thị và thầy Nguyễn Đình Hinh giữ chức vụ này. Ngoài ra, Trường có các Giáo sư chính thức như: Châu Văn Tâm, Hà Ngọc Đăng, Lê Trọng, Nguyễn Bình, Nguyễn Đình Long, Nguyễn Hữu Tấn, Nguyễn Văn Cang, Nguyễn Văn Tể, Trần Văn Minh, Hải (không rõ họ), và các Cô: Bùi Thị Trà, Phan Thị Hồng.

Niên khóa đầu (1967 - 1968) Trường chỉ có 1 lớp Đệ Thất. Qua 8 năm hoạt động, niên khóa 1974 - 1975, trường phát triển đến 25 lớp, gồm: 6 lớp Sáu, 6 lớp Bảy, 5 lớp Tám, 4 lớp Chín, 2 lớp Mười, 2 lớp Mười Một; và trở thành Trường Trung học Công lập Đệ Nhị cấp.


QUẬN HOÀI NHƠN : 2 TRƯỜNG

27 - Trung Học Tăng Bạt Hổ:


Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn khai giảng ngày 5-11-1955, thu nhận học sinh các quận ở Bắc Bình Định, từ Phù Mỹ trở ra và cả quận Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi. Niên khóa 1955 - 1956, Trường mở 6 lớp gồm 1 Đệ thất, 3 Đệ lục, 1 Đệ ngũ, 1 Đệ tứ. Lúc ấy, Trường chưa kịp xây cất, các lớp phải học tạm tại nhà dân hay các trường làng ở thôn An Tây như Miễu Chòm, Liên Nông và các nhà dân ở thôn Phụ Đức; còn văn phòng đặt tại tư gia ông Thủ Sắc (thân sinh Bác sĩ Minh).

Bộ Quốc Gia Giáo Dục cử thầy Đoàn Nhật Tấn làm Hiệu Trưởng, thầy Phạm Khắc Thành làm Giám thị. Niên khóa đầu, Ban giảng huấn gồm các giáo sư: Đoàn Nhật Tấn người Tài Lương xã Hoài Thanh, Hoàng Đôn Trịnh người Tam Quan, và quý vị ở Huế vào như ông Lê Văn Thự, Lê Tú Vinh, Nguyễn Đức Duyên, Trần Đình Đàm, Trần Xuân Dưỡng [21], rồi có thêm Phạm Đức Bảo từ Sài Gòn ra. Sau nữa, là các giáo sư Nguyễn Diễn (Quảng Ngãi), Phạm Ngọc Liễn (Bắc), Phạm Xuân Điềm, Trần Đình Cang (Nhạc sĩ Phương Mai), Trương Ngọc Phú...

Thi xong Đệ Nhất lục cá nguyệt, khoảng đầu năm 1956, trường dời về cơ sở mới [22], gồm 6 phòng học vách đất tô vôi, lợp tôn, trần bằng cót tre. Trường xây cất trên khoảnh đất khá rộng, trước kia là đồn lính Pháp, quen gọi là khu "Đất Đồn". Nơi đây, mặt trước giáp Quốc lộ 1, tại ngã ba đường lên An Lão, mặt sau có đường xe lửa xuyên Việt.

Từ niên khóa 1957 - 1958 trở đi, có thêm các thầy: Bùi Xuân Diêu, Dương Công Ấm, Dương Thanh Tùng, Đặng Ngọc Tốt, Đặng Vĩnh Hồng, Đinh Phúc Văn, Hà Công Bê, Hoàng Minh Phương, Huỳnh Hữu Dụng, Huỳnh Văn Gi, Lê Minh Tâm, Lê Văn Dung, Lê Văn Minh, Mai Trọng Hòa, Nguyễn An Hảo, Nguyễn Chư, Nguyễn Đình Tự, Nguyễn Hứa Phương, Nguyễn Kiệt, Nguyễn Tích, Nguyễn Văn Trợ, Phạm Phú Dương, Phạm Thành, Phạm Văn Song, Phan Viết Hưng, Phùng Rân, Tạ Văn Ry, Trần Công Ly Tao, Trần Đình Du, Trần Đình Uẩn, Võ Thành Công, Võ Thu Lương... Và các cô: Hồ Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Hoàng Lan, Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thu Ba, Trần Thị Thu Hà, Trương Thị Tạo, Văn Thị Mận, Võ Thị Trà Liên... [23]

Trong số Giáo sư của Trung Học Tăng Bạt Hổ, có hai vị trước là cựu học sinh của Trường: Ông Phạm Thành, học Đệ tứ (1955 - 1956), sau về làm Hiệu trưởng từ 1970 - 1972, lúc Trường ở Bồng Sơn. Kế đến, ông Lê Văn Minh, học Đệ lục, ngũ, tứ (1955 - 1958), sau về làm Hiệu trưởng, niên khóa 1972 - 1973, lúc Trường dời về Qui Nhơn.

Một dấu ấn khó quên, niên khóa đầu tiên 1955 - 1956, khoa thi Trung Học Đệ Nhất Cấp (lấy bằng Thành chung) kỳ 1, vào tháng 6 năm 1956, Hội Đồng Thí Vụ mở tại trường Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn, dành cho thí sinh 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên ứng thí. Nhưng khi chấm bài thi, Ban Giám Khảo phân đôi: Một nhóm vào Qui Nhơn trú sở, phụ trách bài của thí sinh trường Cường Để và trường Nguyễn Huệ ở Tuy Hòa. Nhóm kia, vẫn trụ tại Bồng Sơn, chấm bài của thí sinh trường Tăng Bạt Hổ và Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Chánh Chủ Khảo là Giáo sư Trần Văn Việt, Hiệu trưởng trường Chu Văn An Sài Gòn, vẫn đặt Tổng Hành Dinh tại Bồng Sơn suốt cả thời gian mở khoa thi. Vì vậy, tất cả thí sinh đỗ thi viết, phải trở lại Bồng Sơn để thi vấn đáp (oral). Và đây là lần đầu, cũng là lần cuối, trường Tăng Bạt Hổ được Bộ Quốc Gia Giáo Dục chọn mở khoa thi [24].

Niên khóa 1958 - 1959, Trung Học Tăng Bạt Hổ vẫn chưa có Đệ tam, số học sinh khi tốt nghiệp Trung học Đệ Nhất cấp, muốn học tiếp, phải vào Trung Học Cường Để Qui Nhơn [25].

Khoảng niên khóa 1962 - 1963, Trung Học Tăng Bạt Hổ có Nghị định chuyển thành trường Đệ Nhị cấp. Tính đến năm 1975, Trường có tuổi đời 20 niên khóa, trải qua 8 vị Hiệu trưởng hoặc Xử lý thường vụ.

Đặc điểm thứ 2, Trung Học Tăng Bạt Hổ, có hai địa điểm sinh hoạt: từ năm 1955 - 1972, đóng tại Bồng Sơn; từ năm 1972 - 1975 dời về Qui Nhơn. Bài này, chỉ đề cập đến giai đoạn ở Bồng Sơn.

- Từ 1955 - 1962, Hiệu trưởng Đoàn Nhật Tấn, Giám thị Phạm Khắc Thành, rồi Nguyễn Bá Hoàng, sau lại Phạm Khắc Thành. Niên khóa 1961 - 1962 bắt đầu mở Đệ tam.

- Từ 1962 - 1966, Hiệu trưởng Hoàng Đôn Trịnh, Tổng Giám thị là Huỳnh Ngọc Anh, Giám thị Phạm Khắc Thành.

- Từ 1966 - 1969, Hiệu trưởng Huỳnh Hữu Dụng, Tổng Giám thị Huỳnh Ngọc Anh, kế tiếp là Đặng Ngọc Anh.

Niên khóa 1969 - 1970, Trường có 22 lớp, gồm: 4/6, 4/7/, 4/8, 4/9, 3/10 (2A+ 1B), 3/11 (2A+1B). Trường bắt đầu có Giám học, nhưng đến khoảng tháng 11-1969, Hiệu trưởng Huỳnh Hữu Dụng chuyển về Qui Nhơn, Giám học Phạm Thành kiêm Xử lý thường vụ Hiệu trưởng.

- Từ 1970 - 1972, Hiệu trưởng Phạm Thành, Giám học Lê Ninh Hậu, Tổng Giám thị Đặng Ngọc Anh (chưa có Phụ tá Giám học và Phụ tá Tổng Giám thị).

Niên khóa 1970 - 1971, Trường có 26 lớp, gồm: 6/6, 4/7, 4/8, 4/9, 3/10 (2A+ 1B), 3/11 (2A+1B), 2/12 (1A+1B).

Niên khóa 1971 - 1972, Trường có 29 lớp, gồm: 7/6, 6/7, 4/8, 4/9, 3/10 (2A+ 1B, 3/11 (2A+1B), 2/12 (1A+1B).

Thời điểm này trường phát triển cao nhất, và xếp hàng thứ 2 các trường trung học trong tỉnh (tính đến 1971 - 1972), chỉ sau Trung Học Cường Để.

Tháng 3 năm 1972, đồng bào ba quận Bắc Bình Định di tản chiến thuật, vào trại tiếp cư ở Phú Tài và Qui Nhơn, trường Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn dời về thị xã Qui Nhơn và tiếp tục hoạt động thêm 3 niên khóa nữa (xem Trường Tăng Bạt Hổ Qui Nhơn, trong Phần I)

28 - Trung Học Bồ Đề Bồng Sơn:

Nguyên là trường Tư Thục Tương Lai của Giáo sư Huỳnh Văn Gi, chưa có cơ sở phải tạm mướn nhà hai phòng ở đường Quốc lộ 1 làm lớp học và khai giảng niên khóa 1958 - 1959. Sau, Hội Phật Giáo tiếp nhận trường này, dời về địa điểm mới, đối diện với chùa Phật Học và đổi thành trường Trung Học Bồ Đề Bồng Sơn. Năm 1972, trường đóng cửa vì chiến cuộc.


NHA TAM QUAN : 1 TRƯỜNG

29 - Trung Học Bán Công Tam Quan:


Trường Đệ Nhất cấp, Hiệu trưởng Thái Vĩnh Thung, sau là Nguyễn Chí Thống. Ban Giảng huấn gồm các thầy như Đinh Bá Thắng, Nguyễn Kim Tâm... có mặt từ lúc trường mới thành lập.

Niên khóa đầu, 1956 - 1957, Trung Học Bán Công Tam Quan mượn rạp hát của tư nhân, gần ga xe lửa. Nơi đây, phòng ốc rộng rãi nhưng tối tăm, nên chỉ dạy tạm trong thời gian ngắn:

Sơ sinh trường ở gần ga
Trong một rạp hát tư gia chung hùn.
Xung quanh rợp bóng dừa um
Rộng rãi thì có, song trùm âm u. [26]

Trường dời đến địa điểm gần lò nung vôi, nơi đây phòng ốc sáng sủa nhưng gặp trở ngại khói thoát ra nồng nặc, học sinh bị viêm đường hô hấp:

Tháng ngày cứ hít hơi vôi
Học hành trở ngại, tìm nơi xa nồng.

Niên khóa 1957 - 1958, Trường lại dời về ngôi chùa cổ ba gian của người Hoa, cách chợ Tam Quan khoảng 500 mét về hướng nam:

Niên khóa mãn, học sinh đông.
Kẹt đường dọn xuống chùa Ông, Tân Thành.
Nơi đây thoải mái học hành
Dừa xanh rợp bóng, vắng tanh tiếng ồn.

Nhưng rồi chùa Ông cũng không đủ chỗ để dung nạp nhu cầu phát triển của trường. Để đáp ứng sự hiếu học của dân địa phương, năm 1958, chính quyền xây cất trường sở tại khu Rừng Quýt, thuộc thôn Tân Thành xã Tam Quan:

Hoài Nhơn, quan chức xuống lên,
Thấy trường nề nếp lại thêm trẻ nhiều.
Đoạn về kiến nghị yêu cầu
Tam Quan Trung học, quá nhiều học sinh.
Học hành tạm bợ chùa đình
Nên xây trường lớp, hợp tình Bán Công.
Tỉnh Đường chấp nhận vui lòng
Ngân sách có hạn, quận phòng phụ thêm.

Niên khóa 1958 - 1959, Bán Công Tam Quan khai giảng ở cơ sở mới:

Thời gian sáu tháng đã xong
Trường xây bốn lớp, văn phòng liền chung.

Niên khóa 1959 - 1960, lớp Đệ tứ trường này lần đầu tiên ra quân tham dự kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, đã đạt thành tích vẻ vang: Với 39 thí sinh, 17 người trúng tuyển, trong đó có 2 đoạt hạng bình, 6 bình thứ, và 9 hạng thứ [27], chiếm tỷ lệ 43,58%. Trong lúc tỷ lệ trúng tuyển trung bình là 40% cho kỳ thi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Trung Học Bán Công Tam Quan đang đà phát triển. Hội Phụ Huynh học sinh dự trù đóng góp tiền để xây thêm phòng ốc. Nhưng, khoảng năm 1966, tình hình ở Tam Quan trở nên mất an ninh, trường Bán Công Tam Quan vĩnh viễn đóng cửa!

Bút nghiên được mấy năm trời,
Chiến tranh khói đạn, bom rơi lửa tràn.
Trường phải đóng cửa bỏ hoang,
Thầy trò tứ tản, mỗi đàng, mỗi nơi. [28]

TỔNG KẾT TRƯỜNG TRUNG HỌC TỈNH BÌNH ĐỊNH

Ngày 16-5-1955, Chính quyền Quốc Gia tiếp thu tỉnh Bình Định. Khai giảng niên khóa đầu tiên (1955 - 1956), toàn tỉnh chỉ có 2 trường Trung học là Cường Để ở Qui Nhơn và Tăng Bạt Hổ tại Bồng Sơn. Cọng lại, có 14 lớp Đệ Nhất cấp, gồm: 4 Thất, 5 Lục, 3 Ngũ, 2 Tứ. Qua 20 niên khóa (1955 - 1975), mặc dù trong cảnh chiến tranh lan tràn, nhưng nền giáo dục Miền Nam Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng, vẫn phát triển nhanh chóng.

Tính đến niên khóa 1974 - 1975, tỉnh Bình Định không có quận nào hoàn toàn an ninh, nhưng vẫn có 29 trường trung học ở các quận. Trong đó, gồm 11 trường công, 2 trường bán công, 16 trường tư; chia ra có 11 trường Đệ Nhị cấp và 18 trường Đệ Nhất cấp. Trong quá trình phát triển, điển hình một số trường hợp:

- Trung Học Đào Duy Từ (Bình Định), nguyên có tên Trung Học Công Lập An Nhơn, suốt 4 niên khóa đầu (1961 - 1965) chưa có phòng ốc. Trường phải tạm trú tại Trung Học Bán Công, và mượn thêm phòng ở trụ sở Hiệp Hội Nông Dân, hoặc khu công sở đối diện với Quận Đường, mới đủ chỗ cho sự phát triển các lớp học. Từ năm 1965, Công Lập An Nhơn có trường sở chính thức. Trong 10 niên khóa sau (1965 - 1975), Trường phát triển rất nhanh, từ 7 lớp (1965 - 1966), tăng thành 56 lớp (1974 - 1975). Với mức tăng kỷ lục, vào 14 tuổi đời (1961 - 1975), trung bình mỗi niên khóa Trường tăng lên 4 lớp.

- Trung Học Phạm Đăng Hưng ở Đập Đá (1969 - 1975), tuổi đời chỉ có 6 niên khóa, tăng 22 lớp, trung bình mỗi niên khóa có thêm hơn 3,6 lớp.

- Trung Học Phù Cát, riêng lớp Sáu đạt mức tăng kỷ lục, niên khóa 1973 - 1974 có 7 lớp, niên khóa 1974 - 1975 mở đến 15 lớp.

Nếu tính cả thị xã Qui Nhơn và các quận, toàn tỉnh Bình Định có 49 trường [29], gồm: 2 trường Cao đẳng [30] chuyên nghiệp, 21 trường Đệ Nhị cấp, 26 trường Đệ Nhất cấp.

Tỉnh Bình Định cũng có đủ 7 loại trường, chia ra: 20 trường công lập (gồm phổ thông, kỹ thuật, chuyên nghiệp, tỉnh hạt), 2 trường bán công, 2 nghĩa thục, 25 tư thục.

Những dữ kiện trình bày trên, cho thấy sự phát triển vượt bực về giáo dục của tỉnh nhà. Và có thể nói, trong thời Việt Nam Cộng Hòa, Bình Định là một trong vài tỉnh có trường trung học nhiều nhất và phát triển nhanh nhất.

San Jose, USA
Đào Đức Chương


GHI CHÚ

[20] Nguyễn Quang Ân; Việt Nam Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn Vị Hành Chính 1945- 1997 (Hà Nội, nxb Văn Hóa – Thông Tin, 1997); trang 121.
[21] Theo Lê Tú Vinh (Giáo sư Trung Học Tăng Bạt Hổ từ thuở đầu tiên), Sự vụ lệnh bổ dụng 6 người, nhưng ông Ngô Kha không đi.
[22] Các lớp Tăng Bạt Hổ dời về trường mới, có nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm: Theo Lê Tú Vinh (Giáo sư Cố vấn Lớp Đệ ngũ TBH, 1955 - 1956), sau kỳ thi Đệ nhất lục cá nguyệt, tức khoảng đầu năm 1956, các lớp Trung Học Tăng Bạt Hổ dời về trường mới. Theo Phạm Thành (cựu học sinh Đệ tứ TBH, 1955- 1956), khoảng đầu tháng 12-1955, dời toàn bộ các lớp Trung Học Tăng Bạt Hổ về trường mới ở khu "Đất Đồn". Theo Lưu Kỷ Cựu Học Sinh Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn, Xuân Tân Tỵ 2001, qua bài viết của Ban Biên Tập "Vài Nét về Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn", trang 1, có đoạn chép "...Đầu tháng 10-1955, hai dãy trường lợp bằng tole trên khu 'Đất Đồn' được xây dựng xong, văn phòng nhà trường và tất cả các lớp được dời về đó..."
[23] Giáo sư Trường Tăng Bạt Hổ khoảng 85 người.
[24] Như đã nói trên, thi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp niên khóa 1955 - 1956, kỳ 1 thi ở Bồng Sơn; kỳ 2, vào tháng 8-1956, Hội Đồng Thi cũng chung cho ba tỉnh nhưng mở tại Qui Nhơn.
[25] Nguyễn Thanh Phước; Lớp Đệ Lục III (1955- 1956); "Lưu Kỷ Cựu Học Sinh Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn", Xuân Tân Tỵ 2001; trang 127-138.
[26, 27, 28] Tài liệu do ông Nguyễn Công Lượng, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Đặc San Lại Giang, cung cấp: các bài văn "Anh Thái Vĩnh Thung" của Đinh Bá Thắng (cựu Giáo sư Bán Công Tam Quan), "Từ Ngôi Chùa Cổ" của Trương Ngọc Lệ (cựu học sinh Bán Công Tam Quan), và bài thơ "Lịch Sử Trường Trung Học Bán Công Tam Quan" của Phạm Xuân Điềm (cựu Giáo sư Trung Học Tăng Bạt Hổ).
[29] Tính cả Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn (ở quận) và Trung Học Tăng Bạt Hổ Qui Nhơn (ở thị xã), tỉnh Bình Định có 49 trường.
[30] Trường Sư Phạm Thực Hành, tuy thu nhận học sinh cấp 1 và giảng dạy chương trình Tiểu học, nhưng mục đích chính là dành cho giáo sinh thực tập và luyện tay nghề. Giờ thực tập của mỗi Giáo sinh, có Thầy dạy ở Trường Sư Phạm đến hướng dẫn và chấm điểm, có Giáo viên phụ trách lớp dự khán phê bình, có các Giáo sinh cùng lớp dự thính để học hỏi. Vì vậy, cũng có thể coi là trường Cao đẳng, đào tạo thầy giáo ngạch Giáo Học Bổ Túc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ PHỎNG VẤN QUA ĐIỆN THOẠI:
- Ngày 14-11-2004 và 30-03-2011, phỏng vấn: Nguyễn Công Lượng, nguyên học sinh Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ (1958- 1964), cựu Phó Quận trưởng Hoài Nhơn và An Nhơn, hiện ở Huntington Beach, California (CA).
- Ngày 19-11-2004 và 28-03-2011, phỏng vấn Huỳnh Hữu Dụng, cựu Hiệu trưởng Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn (1966- 1969), hiện ở San Jose, California (CA).
- Ngày 28-11-2004, phỏng vấn các ông: Nguyễn Hữu Thời, cựu Dân Biểu VNCH, hiện ở Lake Forest, California (CA); Võ Bá Hà cựu Phụ tá Tổng Giám thị Trung Học Phạm Đăng Hưng, hiện ở Elk Grove, CA.
- Ngày 29-11-2004, phỏng vấn Trần Cẩm Tú, cựu Giám học trường Trung Học Quang Trung Bình Khê hiện ở Fairfield, California (CA).
- Ngày 5-12-1004, phỏng vấn Bùi Chí Lương, cựu Giáo sư trường Trung Học Bồ Đề Đập Đá, dạy từ 1964- 1966 hiện ở Pflugervillr, Texas (TX).
- Ngày 22-9-2005, thư góp ý của Trần Quý Cảnh, người huyện Phù Mỹ, hiện ở 113 Rue De La Gaité, 1070 Bruxelles, Belgique.
- Ngày 17-4-2010, phỏng vấn Lâm Phú, cựu Quản đốc Trung Học Tỉnh Hạt Diêu Trì, hiện ở Maplewood, Minnesota (MN).
- Ngày 9-3-2011, phỏng vấn các ông: Dương Lễ, cựu Hiệu trưởng Trung Học Tuy Phước (1968 - 1975), hiện ở Qui Nhơn, Việt Nam. Và Nguyễn Văn Mẹo, cựu Hiệu trưởng Trung Học Công Lập Phù Cát (1967 - 1975), hiện ở Qui Nhơn, Việt Nam.
- Ngày 10-3-2011, phỏng vấn Đặng Văn Hiệu, cựu Giám học Trung Học Tuy Phước (1973- 1975), hiện ở Tân Bình, Sài Gòn.
- Ngày 13-3-2011, phỏng vấn Lê Văn Dung, cựu Hiệu trưởng Trung Học Bán Công An Nhơn (1973- 1975), hiện ở Garden Grove, California.
- Ngày 16-3-2011, phỏng vấn Hồ Sĩ Phùng, cựu Hiệu trưởng Trung Học Đào Duy Từ, An Nhơn (1972 - 1975), hiện ở Quận 12, Sài Gòn.
- Ngày 17 và 18-3-2011, phỏng vấn Trương Quang Tấn, cựu Hiệu trưởng Trung Học Lê Chất, Phù Mỹ (1972 - 1975), hiện ở Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
- Ngày 22-3-2011, phỏng vấn Lê Tú Vinh, cựu Giáo sư Tăng Bạt Hổ (1955 - 1958), hiện ở Fountain Valley, California.
- Ngày 26-3-2011, phỏng vấn Phạm Thành, cựu học sinh lớp Đệ tứ Tăng Bạt Hổ (1955 - 1956), và cựu Hiệu trưởng TBH (1970 - 1972), hiện ở Suối Cát, Xuân Hiệp, Đồng Nai.
- Ngày 27-3-2011, phỏng vấn Võ Ngọc Uyển, cựu học sinh lớp Đệ tam và Đệ nhị Trung Học Tăng Bạt Hổ (1962 - 1964), và cựu Giáo sư Trung Học Nguyên Thiều (1967 - 1968), hiện ở Midway, California. Cùng ngày, phỏng vấn Diệp Thị Bích Hồng, cựu học sinh lớp Đệ thất đầu tiên (1961 - 1962) Trung Học Công Lập An Nhơn.
- Ngày 31-3-2011, Email của Nguyễn Mạnh An Dân, Chủ bút Đặc San Cường Để & Nữ Trung Học Qui Nhơn, góp ý về trường Bồ Đề Nguyên Thiều và trường Đề Thám An Túc.
- Ngày 9-5-2012, phỏng vấn Nguyễn Đình Hinh, cựu Tổng Giám thị Trung Học Đề Thám.
2/ NGUYỄN QUANG ÂN; Việt Nam Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn Vị Hành Chính 1945 - 1997; Hà Nội, nxb Văn Hóa – Thông Tin, 1997.
3/ NHIỀU TÁC GIẢ; Đặc San Xuân Canh Tuất; Trường Trung Học Bán Công An Nhơn xuất bản, 1970.
4/ NHIỀU TÁC GIẢ; Tăng Bạt Hổ Niên Kỷ – Cựu Học Sinh Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ; xuất bản tại Việt Nam, 1999.
5/ NHIỀU TÁC GIẢ; Lưu Kỷ Cựu Học Sinh Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ Bồng Sơn; xuất bản tại Việt Nam, Xuân Tân Tỵ 2001.
5/ NHIỀU TÁC GIẢ; Giáo Dục Ở Miền Nam Tự Do Trước 1975 (Education in South Vietnam before 1975); Santa Ana (CA), Lê Văn Duyệt Foundation ấn hành và xuất bản, 2006.
6/ SỞ HỌC CHÁNH BÌNH ĐỊNH, Bản Kê Giáo Sư Dạy Giờ Phụ Trung Học Đào Duy Từ; Sự Vụ Lệnh Số 3614/SHC/BĐ/NV/SVL, ký ngày 24- 12- 1973 của Chánh Sự vụ Sở Học Chánh Bình Định- Qui Nhơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét