Đò chiều còn đó người đưa, Ngâm Ai Tư Vãn người xưa đâu rồi

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

VĂN DOAN DIỄN CA (8) - ƠN CÙ LAO CÚC DỤC


Lía muốn xem tuồng. Tuồng diễn chuyện Ngũ Tử Tư báo thù cha không đáng để Lía xem. Ngũ Tử Tư chỉ là người con hiếu, cầm binh để trả hiếu, chỉ là kẻ đào mồ cuốc mả người báo thù chứ không có mộng định bá đồ vương. Với Lía, chí của Lía là ở con chim Hồng chim Hộc lượn trên chin tầng cao. Tuồng Lía xem phải là tuồng của những đấng anh hùng sơn hà chia 3 chân vạc. Trong Văn Doan Diễn Ca, xem ra thẩm định nghệ thuật của Lía đâu chỉ quẩn quanh ở điệu hò câu hát.

Là đấng anh hùng, anh hùng nào trước tiên cũng phải là người con hiếu tử. Nhưng thường thì những kẻ lăn thân vào cuộc thực hiện mộng định bá đồ vương - lại phần nhiều là những kẻ chẳng kịp đền ơn phụ mẫu cúc dục cù lao… Sớm chẳng rót được chén trà cho cha, tối chẳng thả được cái mùng cho mẹ. Chẳng qua chỉ thực hiện được chuyện tống táng, ma chay - là chuyện mà thường người đời cho vậy là người con có hiếu.


VĂN DOAN DIỄN CA (tiếp theo …)


Nầy đoạn nói sự Truông mây
Hát rồi ta phải toan lo việc nhà.

Lại nói:
Nào trẻ bây, bắt năm con heo làm thịt ta vầy một tiệc cho vui mà chơi.
 
Xướng:
Tiệc bày ăn uống no say
Anh em vậy thời ta mới chia nhau.
Chức việc phân trước ta kêu
Đàn ông kêu trước, đàn bà kêu sau.
Anh em cho đủ chia nhau,
Bạc vàng sô nhiễu, lụa tiền, đũi thao.
Kẻ nhiều người ít chia nhau
Kẻo nữa nó trách anh chia không đều.
Trước là về viếng mẫu từ
Sau thăm quê cũ cửa nhà thể nao.
Thử còn làng xóm làm sao
Sống thác lẽ nào cho ngó thấy nhau.
Cha Hồ chú Nhẫn cho mau
Chọn năm mươi đứa theo tao chớ chầy.
Ba người ba võng ra đi
Dẩy xe[1] vàng bạc theo tao về nhà.
Trước chưng ba cặp gươm vàng
Trường côn giáo cái, theo hầu một bên.
Viếng thăm từ mẫu cho tường
Thử còn hay mất, tuổi đà tám mươi.
Từ ngày cách mặt huyên đường
Đói no nào biết, rách lành khôn hay.

Lại nói: các em
Y nhứt lịnh thi hành
Vọng gia trung phản bộ xong

Vãn:
“ “ Giã từ sơn trại,
Kẻo lâu ngày cách mặt từ thân.

Lại nói:
Như ta ở nhà cùng mẹ ta, ví chẳng khác
Long tồn phục địa
chớ như nay, đã làm nên rồi
Như hổ đắc phi thiên.

Vãn:
Cho hay là nỗi sự duyên
Vinh hoa phận trẻ, khó khăn thân già.
Xa xem lố thấy gia trung
Phút đâu đã tới, hầu kề quê hương.

Xướng:
Nầy đoạn mụ Lía ở nhà,
Phơ phơ đầu bạc, tuổi đà tám mươi.
Bán buôn chẳng đặng, khá thương
Nhờ người thương khách dưỡng thân tháng ngày.
Cơm ăn bữa có bữa không
Sao con bất nghĩa bất nhân làm vầy?
Con sao bỏ mẹ cho đành
Mười ân chưa trả, nỡ đành lòng con.
Tội mầy còn để âm ti,
Bỏ công cha mẹ sanh thành con ôi!
Như tôi tưởng sanh con ra mà nhờ, mới cho ăn đi học, ai ngờ là những quân hoang đảng tử, đà không tưởng sanh thành. Ớ con ôi! Như tội mầy, nớ
Cai nễ tội cô nhi,
Ai ta hồ ấu tử!

Thán:
Thống thiết nghịch nhi ta bất nghĩa
Nhứt thân lão phụ thọ gian nan.

Lại nói:
Ôi! Thiên táng ngã “
Địa mai ngô “
Lưỡng mục quan bất kiến
Thống thiết dã bi ai!

Xướng:
Tám mươi còn chịu tật nguyền
Mắt thời đui tối, biết đi phương nào?
Lần đường, nước mắt tuôn rơi,
Chẳng ai nương cậy thân già Trời ơi!
Bao giờ con lại về nhà
Trông đêm chẳng thấy, đợi ngày nào hay.
Phen nầy mẹ thác bỏ con
Chẳng ai chôn cất thân già con ôi!

Lại nói:
Sách có chữ rằng
Dưỡng tử bất giáo, phụ chi quá
nhưng mà cha nó đã thác rồi.
Còn có một mình tôi
cũng dạy bảo lắm, nhưng mà nó cũng chẳng nghe, thời
Sanh tử bất sanh tâm đi,
(chẳng?) đặng mà

Loạn:
Hễ thị tử chi bất nghĩa,
Phế lư trang, tụ đảng chi hung đồ.
Kính chúc Nam trào tăng vạn thọ
Vãng dâng thứ nhứt, xin chiềng hồi hai.

Xướng:
Con đà bất nghĩa vô nhân,
Bỏ mẹ đói khát gian nan nhiều bề.
Công lao ăn đắng uống cay,
Nhọc nhằn thời có, cậy nhờ thời không.
Ơn cha nghĩa mẹ sanh thành
Lòng nào nỡ bỏ, chẳng về viếng thăm.
Văn Doan đi đã tới nơi
Anh em lớn nhỏ tức thời bước vô
Bốn bề vắng vẻ lạnh tanh
Cửa nhà xích xác biết vô phương nào.
Hai hàng nước mắt như mưa
Nghĩ mình thôi lại thẹn mình làm con.

Lại nói:
Thưa mẹ, con đã về đây mẹ
Kỷ bất hiếu chi nhi,
Hồi thám kỳ lão mẫu. đây mẹ à

Xướng:
Xưa, hoang, bỏ mẹ con đi
Làm nên trở về, báo hiếu mẫu thân.
Tôi mà bất hiếu vô ân
Đất trời đâu nỡ dung con đặng về.
Mụ Lía nghe nói giận thay
Mầy thằng bất hiếu về rày làm chi.

Doan:
Thưa mẹ, nay con đã
Cải ác tòng thiện, hữu nghệ vi thương rồi mẹ à

Mụ lía:
Thôi đi nào      Bất thính “
Vật ngôn “
Như mầy         Nễ tội bất nan dung,
Quyết toái thi vạn đoạn.

Loạn:
Lía, như tội mầy là
Nễ tội dĩ ưng cai vạn đoạn
Bất hiếu nhi dung thử hà vi?

Doan:
Dạ trăm lạy mẹ, để con phân lại cho mẹ nghe nào
Loạn:
Nhứt mẫu chỉ sanh nhứt tử
Thưa mẹ bỡi rứa vậy cho nên con
Mỗi niệm từ thân đại nghĩa thâm.

Mụ:
Lía, chẳng nghe. Mầy là thằng nói láo, như mầy, nớ là

Loạn:
Chỉ thị ngoa ngôn bất thính, như phen nầy
Cửu tuyền tử hạ bất dung chi
Lía, như ai thời mụ tin đó, chớ như mầy
nớ là Bất nghĩa bất nhân chân bất hiếu
thôi thôi, đừng mẹ đừng con nghe
Toái thi vạn đoạn bất dung tha.

[Doan] loạn:
Trăm lạy mẹ, con đầu dám nói láo cùng mẹ nào
Vạn vọng mẫu thân khất thứ ấu nhi chi tội
Tự tư dĩ hậu bất ngoa ngôn.

Xướng:
Mụ Lía nghe nói khá thương,
Dò đường bước lại vậy mà ôm con.
Sao con bỏ mẹ đi đâu
Bây giờ trở về, chẳng thấy mặt con.
Cơm ăn bữa có bữa không
Nhờ người bố thí nên qua tháng ngày.
Mẹ còn, cha mất chẳng hay
Theo loài hung dữ chẳng kiêng những là.

Doan:
Thôi Họa lai chí cấp, phước đáo hành trì.
như nay Mẫu thân đà mục ám
Bất hiếu tử tội cam.
dám thưa mẹ, xin nghe con một lời nào
xin theo con về chốn gia trung
Ngõ đặng báo cù lao dưỡng dục nào.

Xướng:
Mẹ thời yếu đuối, đã già
Có thương tới mẹ, xin con ở nhà.
Ở cho trọn đạo mẹ con
Cưu mang nhũ bộ đền công sanh thành.
Mẹ may mà đặng gặp con
Tấm lòng thương nhớ cũng nguôi đặng rồi.
Nỗi sầu chi xiết đoạn trường
Mắt thời bóng quáng, thảm phiền tại con.

Doan:
Thưa mẹ, ấy là
Số mạng tại thiên, công mẫu từ hưu thán oán nào.

Xướng:
Mẹ đi thời đặng con ôi
Cha con phần mộ để ai giữ gìn.
Đạo cha nghĩa mẹ sanh thành
Trung hiếu lưỡng toàn vậy mới nên trai.

Lại nói:
Thưa mẹ, hễ là vi nhân chi tử thời phải thượng hiếu sự ư thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, phụ mẫu chi sự bất khả vong hồ! là phải lắm mà

Xướng:
Mẹ theo con tới gia trung,
Mồ cha tôi để có người giữ coi
Ví dầu chẳng kịp người xưa
Con đâu có để thế gian chê cười
Nay con nói hết đầu đuôi
Lạy mẹ xin chớ toan lo việc gì.
Con nói thời mẹ nghe lời
Nay đi thậm dễ, mai về chỉn khôn.
Than rằng đất rộng trời cao
Vận thời đã tới tuần nầy con ôi!
Con ôi, mạng mẹ chuyển dời
Tứ chi bát mạch chẳng còn như xưa.
Con ôi, nâng đỡ mẹ lên
Mẹ mà trối lại vài lời con nghe
Mụ Lía gần đã hết hơi,
Vừa than vừa khóc trối rày cùng con
Mẹ dầu thác xuống âm ti,
Đừng làm giá triệu minh kinh[2] làm gì.
Con mà có tưởng cưu mang
Có thương chôn lấp kẻo thân lõa lồ.
Chớ làm những mả những mồ
Mà sau hao tốn, cực thân cơ hàn.
Hiếu trung con giữ vào lòng
Tu thân tích đức theo người thiện nhân.
Của nhà đem tế mới siêu
Của đi trộm cướp, ai mà chứng cho.
Trối thôi, hồn đã qui thiên
Tay chưn lạnh lẽo, tắt hơi đã rồi.

Văn Doan, 3 vợ:
Ai ta hồ từ mẫu
Thống thiết dã ngô nhi!
Kim triêu phân lưỡng lộ
Hà nhẫn sử chi ly.

Xướng:
Tay bèn ôm lấy mẹ già
Nằm lăn mà khóc, kêu la vang dầy.
Mới về chưa đặng mấy ngày
Nỡ nào mẹ bỏ con đi sao đành!
Tưởng về trả nợ áo cơm
Có đâu phận bạc hai đường cách xa.
Ba dâu đã chịu lỗi nghì
Mẹ chồng nay đã hồn về cõi tiên.
Ba dâu quì xuống khóc than
Mẹ chồng nỡ bỏ ba dâu sao đành.
Văn Doan đòi các thợ may
Sắm đồ thành phục tức thời cho mau.

Lại nói:
Truyền quân nhân kíp dụng quách quan
Đặng cho mỗ lo phương tống táng.

Xướng:
Văn Doan mời khắp bổn hương
Xóm làng lân cận đông đà nên đông.
Mời thầy, mời sãi, lễ sanh
Lại kêu đàn thổi đông tây hai vòng (chữ hán)
Lại đòi hát bội tới đây
Cho tao sắm sửa vậy mà đưa quan.
Linh xa minh khí tốt thay,
Trong thời thầy sãi, ngoài thời lễ sanh.
Trâu bò làm cỗ tế dâng
Mới đọc văn tế đặng mà đưa quan.

Văn tế:
Ô hô! Khá tiếc, mạng ta phận bạc,
Ngày nay lão mẫu, phút đã chầu trời.
Con có một mình, không ai dạy bảo.
Nay đà cách biệt, chẳng thấy mẹ đâu.
Vắng trước quạnh sau, không ai nương cậy.
Tín thành làm lễ, kỉnh tống từ thân.
Vả đạo làm con, cho tròn chung thủy.
Phục dung thượng hưởng[3]

Xướng:
Đọc rồi, đánh trống vang dầy
Vợ chồng quì lạy, khóc than, châu mày.
Trước thời giá triệu tốt thay
Linh xa, minh khí, để rày đi sau.
Trưởng nam đi trước khóc than.
Ba dâu nằm đường, thôi mới động quan.

Trùm:
Nào đạo tùy ta đó bây, nghe tao dặn như nghe ba hồi thời mở hoa giản, mà kéo vô, đặng mà bái quan, cho tử tế a

Văn Doan, 3 vợ:
Nay đặng ngày cát nhựt lương thần
Đưa linh cửu sơn tiền[4] mai táng

Vãn:
“ “ Ruột chín chìu đòi đoạn xót xa

Lại nói:
Mộc dục tĩnh nhi phong bất tức
Tử dục tồn nhi mẫu bất tồn

Vãn:
Mười ân dạ dốc lăm đền
Hổ trang nằm giá, thẹn người khóc măng.
Âm cung mẹ đã vội về
Cành cao phút gãy, cầu (?) dài lại xiêu.
Xa xem lố thấy cao sơn
Hai hàng nước mắt, chín chìu ruột đau.

Xướng:
Ai ai xem thấy khá thương
Trai phò giá triệu, gái đưa quan tài.
Thiếu chi tiền bạc lụa hàng
Lấy ra báo hiếu nào ai dám bì
Hoạnh tài chẳng để làm chi,
Làm đi cho hết đặng siêu linh hồn.
Tưng bừng đánh động Sa Tăng,
Bát Giái với thầy Tam Tạng đưa vong.
Trống chiêng đánh đã vang tai
Phút đâu linh cữu tới nơi mộ phần.
Đạo tùy hạ rộng vừa rồi
Văn Doan thôi mới thưa qua lời nầy.

Lại nói:
Thưa các làng, có lòng đã đưa lên tới đây, tôi lạy làng đáp lễ, ẻ

Xướng:
Thưa làng đã có công đưa
Lấy vàng hai nén đền ơn các làng.
Xã làng khen nói trai khôn
Hèn chi người đồn Văn Lía có gan.
Đạo tùy bây kíp vô đây
Thầy chùa, hát bội, trống đờn cũng vô.
Đạo tùy bây có công khiêng
Bạc cho năm nén về mà chia nhau.
Thầy chùa bốn nén bạc cho
Hát bội ba nén, trống đờn ba trăm.
Xóm làng chí những ai ai,
Tấm lòng mừng rỡ toan lo trở về.
Văn Doan cất rạp bên mồ
Đã làm thành quách vậy mà an cư.
Cha Hồ vâng thửa lời anh,
Truyền cho quân chúng canh giờ nhặt nghiêm.

Hồ:
Ậy  Đông trại tây trại canh giờ cho nghiêm nhặt a
Nam trại bắc trại tuần phòng cho cẩn thận nghe a.


Doan, tán: các em
Nay có người điềm chỉ cho anh
Rằng xứ Phú Yên thôi thời nhiều nhà giàu có, phú hộ, bá hộ cũng nhiều, nay anh xuống đó, vả chăng thiên hạ thời đông lắm, quan gia cũng nhiều, vậy thời

Xướng:
Anh em ta phải ra công
Đồng sức đồng lòng làm vậy mới nên
Cha Hồ, chú Nhẫn thưa lên
Đã đứng anh hùng bao nại tử sanh.
Hỏi rằng người nói có quan
Khí giới thời nhiều, binh mã thời đông.
Chi bằng ta xuống làng trong
Gặp đâu đánh đó, thành công cũng mầu.
Văn Doan nghe nói liền cười
Vậy cũng ăn cướp, gọi ba đời người.
Ai ai mà chẳng nghe tao,
Thời tao chém quách, bêu đầu chẳng tha.

Tờ đòi các bợm đâu đâu
Tính hết ngày rày đã đặng năm trăm.
Điểm danh Hồ, Nhẫn hai em
Cho làm Phó tướng, đi mà Tiên phuông.
Hỏa Xa, Mây Bạc, Cát Vàng
Nguyệt lạc, Sao tàng, Tinh  Lá, Đá đen.
Kỳ lân, Sư tử, Hùm Vàng
Anh cho tiếp đạo vậy thời Tiên phuông
Tây phương Én liệng, Cò bay
Đông phương vậy mà Rồng đỏ, Hùm đen.
Nam phương dùng tướng Xã Nên
Bắc hướng vậy thời một gã Thanh Tô.
Trung quân chư tướng theo tao
Nghe trống thời tới, nghe chiêng thời về.
Lịnh truyền các tướng kéo ra,
Huy kỳ tiến phát, quân gia rần rần.

Lại nói:
Trước mộ phần bái tạ,
Con trở xuống Tràng an.
Nguyện song hồn trực vãng Tây phang
Cho ấu tử kinh sư dời bước.

Vãn:
Nguyện song hồn trực vãng Tây phang.
Cho hay hễ đấng làm trai,
Thảo thân dốc báo, chi sai tấc lòng.

Tán:
Sơn trung tự hữu thiên niên thụ,
còn như người ở đời là
Thế thượng nan phùng bách tuế nhân.

Vãn:
Hai hàng lụy nhỏ tuôn rơi,
Cám thương nỗi mẹ lạnh lùng âm ti.

Xướng:
Thốt thôi đi đã hồi lâu,
Truyền quân trú lại, sáng ngày sẽ hay.
Cha Hồ, chú Nhẫn quì thưa
Đêm nay ta đánh, sáng ngày người đông.
Doan rằng, em chớ lo âu,
Hễ đấng anh hùng, còn sợ làm chi.
Truyền cho mai phục tứ vi
Đặng tao giả lịnh trào nghi sai vào.
Phút đâu trời đã sáng ngày
Truyền quân bây kíp thẳng ngay vào đình
Mõ làng bây đánh ba hồi
Xã làng chạy tới, đứng hầu một bên.

Văn Doan:
Các xã, nghe tao bảo đây, đi đòi bổn phố cùng chúa tàu đến cho tao hỏi đây

Xướng:
Xã làng sợ đổ mồ hôi,
Mau chưn ta kíp phân nhau đòi vào.
Bổn phố chí những chúa tàu
Nghe đòi lật đật rủ nhau tới hầu.
Lịnh sai thảo khấu Hồ Nhung
Dẹp giặc yên rồi, tao mới tới đây.
Bây giờ đã hết tiền lương
Cậy bây tua khá giúp binh về đường
Bổn phố chí những chúa tàu,
Xúm nhau tiền gạo đặng mà ba trăm
Nay tôi đem tới dâng ông
Dám dùng lấy thảo, xin ông đoái tình.
Dạy đòi khắp hết quan dân,
Tới đây tức tốc, tao phân lời nầy.
Văn Doan mới nổi pháo lên
Truyền quân trói hết, kéo binh ra ngoài.
Tứ phương Hồ, Nhẫn ứng lên
Giáo gươm chiêng trống vang dầy như ong.
Tới đâu đánh đó tan tành,
Ai ai mất vía chạy mà như tên.
Quan dân trốn hết chẳng còn
Ngoài đường không có một người dám đi.
Văn Doan ở đặng ba ngày
Lấy vàng cùng bạc, tiền đồng mười muôn.
Lịnh truyền Hồ Nhẫn hai em
Đi đòi nhà khó tức thời tới đây,
Dân nghèo tao phát cho bây
Một đứa lãnh lấy tiền đồng một trăm
Đem về thương mãi làm ăn
Kẻo mà khó đói, cực thân cơ hàn.
Tật nguyền một đứa hai trăm
Đem về dưỡng bịnh, kẻo lòng ta thương.
Lịnh truyền quân kéo về truông
Tiệc bày ăn uống vui cười ngả nghiêng.
Anh em ta phải chia nhau,
Thảy đều phân tán, phản hồi bổn hương.
Trước là tính việc chay tuần
Sau thăm mồ mả lâu ngày nhớ thương.

Lại nói:
Anh hỏi các em, ai về theo anh thời về, còn ai muốn về thăm vợ thăm con, thời anh cho. a

Hồ:
Dạ dám thưa Anh Hai, anh dạy làm rứa, [thời] chư đệ phản hồi, còn
Lưu ngũ thập viên chiến tướng mà thôi.

Doan:
Các em, này anh về, chẳng qua là
Vì nỗi trai tuần đã tới
cho nên Phải trở về báo hiếu từ thân.
như Nghĩa đệ huynh bao nỡ cách xa
còn Niềm bằng hữu có đâu phân rẽ.

Chư đệ:
Thưa anh Anh có lòng báo hiếu
Ngu đẳng tống thượng trình
Hiến nhứt trản tửu bôi,
Kính Trưởng huynh thượng lộ a

Loạn:
Thiên các nhứt phương phân thủ túc
Thống ngã tâm trung áo não tình.

Doan loạn:
Chư đệ à
Sơn cách, thủy cách, tình nan cách
Tinh di, nguyệt di, chí bất di.

Chư đệ vãn:
Chư đệ tạ từ huynh trưởng
Phân hai đường, kẻ tới người lui.

Doan vãn:
Nhìn theo lụy nhỏ hai hàng
Đây về bổn quán, đó hồi trại trung.

Lại nói:
Thôi Chư đệ đà trở lại trại trung.
Nọ, sau là Âu ta kíp gia trung phản bộ a

Loạn:
Huề thủ đồng hành phản cố hương
Đồng tâm ngô đẳng các nhứt phương.




[1] Tiếng xưa
([2] Sanh.) Khuôn liễn dài để tên họ, chức tước người chết, khiêng đi trước quan tài.
[3] Bài Văn tế, làm theo lối tứ tự, nên viết lại 1 hàng 4 chữ.
[4] (N.tuyền (chữ hán))


(Còn tiếp ...)

   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét