Đò chiều còn đó người đưa, Ngâm Ai Tư Vãn người xưa đâu rồi

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

QUÁCH TẠO - ĐỜI NGƯỜI DÂU BỂ


Bác Quách Tạo là em bác QuáchTấn, lớn hơn ba tôi bốn tuổi. Nếu dùng từ để chỉ tình bạn của họ, thì chữ “Tri kỷ” là hợp nhất. Bởi tình cảm đâu phải hàng hóa khan hiếm để chia đều theo đầu người. Tôi kính trọng và yêu quí bác như bác ruột.

Tôi học ngành Chăn nuôi, nên khi ai đến nhà, trước tiên tôi phải lướt nhìn sơ qua hình dáng người ấy để phân theo “Loại Thần kình” như bài tôi đã học. Điều này đối với con người càng rõ, các cụ xưa chẳng đã nói “làm quan có dạng, làm dáng có hình”. Qua mắt tôi, bác Tạo thuộc loại hình lý tưởng: người phương phi, cân đối, chắt khỏe, da ngăm, mặt chữ điền, râu quai nón, ánh mắt có lửa, trông như ông Thiện, ông Ác trên bức phù điêu ở các cổng chùa. Có lúc tôi nghĩ bác chính là cụ Từ Hải của đại thi hào nguyễn Du hiện về.

Với dáng vẻ như thế, nhiều người bảo bác khó gần. Nhưng, ai tiếp xúc rồi sẽ thấy, đó là một con người chứa đầy tâm sự, tư cách đàng hoàng, sống và nghĩ rất logic, có trái tim nhân hậu, vị tha.      

Sở dĩ tôi dùng từ tri kỷ để ví tình bạn của ba và bác, vì đã chứng kiến cảnh đôi bạn ấy bên nhau hàng giờ, bàn về nghệ thuật hội họa, ngôn ngữ thơ Tây, Tàu, ta, rồi ngôn ngữ của nghệ thuật tuồng, chèo v.v... Mỗi người mỗi vẻ phân tích cái hay cái đẹp của một bài thơ, một bài hát hay một bộ phim. Bác Tạo ca ngợi bộ môn nghệ thuật tuồng rất cao, mỗi một cái phẩy tay, nheo mắt đều thể hiện hành vi của nhân vật. Bác tỏ ra thích thú vở Nguyệt cô hóa cáo; còn ba tôi thì khen chất trữ tình, tính nhân văn của phim Đến hẹn lại lên  v.v.. . Đôi lúc tôi nghe họ bàn đến chữ tri kỷ, hay chất ngọc ở đời v.v... Tôi có hỏi thế nào là tri kỷ, bác giải thích “Tri kỷ là sự hiểu, thương yêu, quan tâm, gần gủi tâm đắc, thấu hiểu tâm tư tình cảm của đôi bạn hay vợ chồng…cùng nhau chống chọi với mọi khó khăn trong cuộc sống..”. Rồi, bác kể câu chuyện sau:

 “Có hai người bạn chơi nhau rất thân, họ tâm đầu ý hợp với nhau ở mọi góc độ, không lúc nào rời nhau. Cứ giờ đó, hai người rủ nhau chơi cờ. Chơi đến độ người này nắm bắt được cách đánh của người kia. Thế rồi, một người qua đời! Thương nhớ bạn, người còn lại cũng giờ đó, ra chỗ đó ngồi chơi cờ một mình. Chỉ mình ông chơi cho cả người bạn quá cố. Lúc thì nói “con mã này là tôi đi cho tôi, còn con xe của anh tôi giữ lại, Tôi ăn con tốt của anh. Cuối ván cờ, ông bảo - ván này ông thắng tôi  đấy” .Cứ thế, ngày nào cũng vậy. Ông chơi cờ một mình, cho đến lúc ông không còn sức để chơi nữa. Và ông đi gặp bạn tri kỷ ở nơi nào đó!".

Là Học sinh Miền Nam, chúng tôi chỉ được giáo dục một chiều; được nghe những cuộc tranh luận như thế, tôi vỡ ra nhiều điều. Bác Tạo như một nhà triết gia uyên bác, hiểu rộng, sâu sắc, có cái nhìn đúng đắn về lịch sử văn hóa của Bình Định. Có điều, bác nghiêm, ít giao rộng. Có lẽ do mặc cảm việc ba lần suýt bị chính quyền Cách mạng bắt đem xử chém; nhưng nhờ đèn trời soi xét, cả ba lần bác đều thoát án một cách tài tình là do cách mạng vẫn còn sử dụng tài xử án và tài nghệ võ mà bác thoát được lưỡi đao của mấy ông Cách mạng và kháng chiến dõm.

Con gái bác ở Hà Đông; tướng tá, tiếng nói mang gien trội của bác, chị hệt như đàn ông; tính tình mạnh mẽ, quyết đoán. Ai bảo bác đặt tên chị là “Quách Liên Trì”. Thế mới có sự nhầm lẫn thú vị: Khi chị học lấy bằng Y sĩ; trớ trêu thay, trong lớp lại có anh tên tên con gái - Bùi Kim Thoa. Nếu thầy giáo gọi chị lên bảng  thì “mời anh Quách Liên Trì”, nếu gọi anh Thoa thì “mời chị Thoa”. Vậy là cả lớp Y sĩ được dịp cười chảy nước mắt. Nhân lúc trả bài thi viết, thầy giáo chê chị “gía anh Trì đổi tên cho chị Thoa thì hay biết mấy; chữ chị Thoa đẹp như chữ đàn ông, còn anh Trì xấu như gà bới”.

Buồn cười hơn, đi khám bệnh tập thể, y tá Bệnh viện xếp hồ sơ chị ở khu khám bệnh cho nam giới, còn anh Bùi Kim Thoa thì ngược lại. Đến lược anh, cô y tá gọi: “mời chị Kim Thoa vào khám phụ khoa”. Thế là tập thể lớp Y sĩ lại được một trận cười nghiêng ngã, khiến người bên cạnh ngơ ngác chẳng hiểu gì cả

Con trai bác, anh Quách Đạt, ở Quảng Ninh. Số anh là số con rệp!.Đi bộ đội rất sớm, chưa kể những vết thương do bom đạn, còn lên rng, lội suối, vắt, rắn cắn để lại dấu vết trên dọc ngang thân thể, qua tận bên Lào chiến đấu, giúp bạn giải phóng khỏi ách đô hộ Thực dân Pháp. Thế mà trời xui đất khiến thế nào, hôm lau súng, bỗng “đoàng”, viên đạn bay ra, ghim vào đầu chiến sĩ cùng đơn vị, anh ta chết, anh bị kỷ luật và mất chức! Thế là hết! từ đó anh không còn dính tí chức tước nào cho con cháu nhờ! Giá anh không xui xẻo như thế, bây giờ có thể là Tướng  rất to rồi!. Đúng là “tai bay vạ gió.” Thật tiếc cho cả đời cống hiến!..

Con ở xa, bác góp gạo ăn chung với nhà tôi. Nói không ngoa, má tôi nhờ sổ mua hàng của bác tại Cửa hàng Tôn Đản. Cửa hàng dành riêng cho cán bộ từ chuyên viên 6 và trung cao cấp trở lên. Nếu ai đã từng sống bằng chế độ tem phiếu sẽ thấy, Sổ mua hàng này quí hơn cả vàng 10 tuổi đấy! ngoài mua được hàng tươi, ngon, rẻ; nếu túng bán ít phiếu  sẽ được khoảng chi bù cho các thứ khác.

Bác Tạo được sinh ở đất võ Tây Sơn - Bình Định. Tôi quên một chuyện; lẽ ra chị Trì là chị dâu họ của tôi, song vì tính khí bác Tạo quá  chính trực, liêm khiết, nghe người nào mách “con Trì chưa cưới hỏi đã nhận vàng của đàng trai” tức anh họ tôi. Bác đã đòi bắn chị. Chị tức quá hủy hôn với nhà trai.

Tập kết ra Bắc, bác làm ở Tòa Án Nhân Dân Tối cao. Võ nghệ bác thuộc loại siêu, lúc nào cũng ở trạng thái chống trả. Ai lỡ đụng thì coi chừng mất mạng. Có lần, bác đi ngang chỗ đông người tập thể dục, có anh thanh niên nhỡ đụng phải, bác giơ tay đỡ, anh bị chúi đầu xuống đất, kêu ơi ới. Mọi người tưởng bác vô cớ đánh anh, la toáng “Ôi giời ơi! ông già kia tự dưng đánh người”. Hoảng quá, bác xua tay, thanh minh “cậu ấy đụng, tôi đỡ” lúc đó mọi người ồ lên “anh này va phải võ sư siêu đẳng rồi”. Chính vì võ nghệ bác quá siêu, nên ba tôi sợ có ngày chúng tôi bị bác làm gãy xương, đã dặn cẩn thận “Khi bác đang ngủ, gọi bác dậy ăn cơm, các con đứng ở đầu giường, đừng đứng dưới chân, ai động tới, bác tưởng bị đánh, sẽ quật các con gãy xương”

Bác còn là cầu nối giữa ba tôi và bác Quách Tấn. Sau khi xuất bản tập thơ “Giọt trăng” tại Paris. Bác Tấn gửi cho bác Tạo 3-4 quyển để tặng cho em trai và các bạn thân cũ. Tập thơ đã đi vòng vèo từ Parir về Sài Gòn, sang lại Parir để về Hà Nội.

Hồi đó, phải qua rất nhiều sự kiểm duyệt nhiêu khê như vậy, mà cuối cùng sách cũng không đến được tay người nhận. “Chẳng hiểu tại sao chú Nguyễn Đình, tình cờ nhìn thấy tập thơ này ở nhà người bạn làm ở Bộ nội vụ”. Chú bèn mượn về, thức cả đêm chép tay, vẻ bìa, sao y, rồi đem biếu bác Tạo.

Cầm tập thơ, bác Tạo và ba tôi giấu diếm rất tội nghiệp, chui vào buồng, giấu vợ con, thận trọng lật từng trang xem. Hai người nghe nói tập thơ có 7 bài khóc con chết trận. Sợ nội dung bôi nhọ chế độ XHCN Miền Bắc, làm liên lụy đến người đang ở Hà Nội. Nhưng, đọc đến trang cuối, hai người thở phào nhẹ nhõm. Bài thơ nào trong đó, cũng toát lên lòng yêu nước, yêu dân tộc. Bác Tấn chỉ diễn tả tâm trạng của người cha mất con:                       

“Ân hận vì đã trót sinh con trai trong thời vô đạo
Cầm súng không biết phục vụ cho ai…”

Sau giải phóng, ba tôi trở lại quê, bác Tạo ở với cháu ngoại, con đầu của chị Trì. Cuộc sống mấy ông cháu ở Hà Nội vẫn còn cơ cực, thiếu thôn trăm thứ, nước, xà phòng, củi, thực phẩm làm hao tốn nhiều sức lực con người.  Bác gửi thư cho ba tôi

Nghèo

Hưu bỗng tăng hai giá vọt mười
Cân bằng cái sống bở hơi tai
Chất tươi còn được canh rau muống
Lượng đạm mong vào nhúm tép moi
Thuốc đắt mong đừng đau ốm vặt
Quê xa dành chỉ mộng về thôi

……………………………………
Hà Nội, Mồng bốn Tết Bính Tý/1996

Đời bác là một pho Tiểu thuyết bi hài thực tế. Bác gặp lắm gập ghềnh; nen bác sống khép kín, vì thế “nước trong quá không có cá, khó tính quá ít bạn” bác buồn và già đi nhiều

Năm 1977, tôi vào Thành phố HCM. Từ đó, ít được tin bác. Năm 1995 ba tôi ra Hà Nội chữa U-nang tiền liệt tuyến, bác đến thăm. Gặp bác, mới đầu, tôi chưa nhận ra, bác già, gầy, và tiều tụy nhiều; không còn quắc thước như xưa!...

Nghe các em nói,  đời sống của ông cháu bác khá cơ cực. Trong Nam, cuộc sống của cha con tôi đỡ hơn, thấy bác như vậy tôi động lòng trắc ẩn. Tôi muốn biếu bác gói bột ngọt Azinomoto, thứ mà lúc đó rất quí hiếm. bữa cơm có canh rau cải, rau muốn bỏ chút bột ngọt là thay thế cho tôm thịt, người Hà Nội hay ví “quí như mì chính cánh”,

Tôi sợ tính khảng khái của bác làm, nhưng liều: “Bác ạ, con có chút quà Miền Nam biếu bác..” Tôi vừa nói vừa ấn nhanh vào tay bác. Tôi mừng như được thưởng. Bác đã không như trước nữa! Bác nhận và cất gói bột ngọt vào túi vải và đọc thơ cho ba tôi nghe.

Cái nghèo  (bất túc)

Mình nghèo đâu đến rớt mồng tơi
Chỉ tội lê thê kéo suốt đời
Rau cháo từng quen ngày bữa rưỡi
Chiếu chăn chịu đựng suốt hai thời
Cái nghèo cố để mòn tâm trí
Sinh thiếu tiên thiên xuất mẫu hoài   
Lão mạo tội gì trời gánh cả
Cái nghèo sao nỡ khoán cho trời
15-6-1997

Ngày ba tôi mất, bác điện vào chia buồn

Thương tiếc bạn cũ :-  Nhà thơ Yến Lan:

Chỉ tiếc mình không hội “Tứ linh”
Cùng chung thưởng thức vận chung tình
Mười năm khế thoát chùa Quan Thánh
Nghìn dặm từ qui mộng Cổ thành
Thuyền ghé My Lăng không kịp bạn
Trăng rằm tháng tám rạng bình minh
Tứ linh giờ đã qui linh hết
Dấu cũ còn đâu Viễn vong đình

(Rằm tháng tám Mậu Dần - 5/10/1998)

Năm tháng dài lê thê qua đi, đời vô vọng của bác lắng sâu vào tận tâm can như đợi lãng quên mang đi, thì đột ngột có tia nắng ấm rọi vào quãng cuối đời. Nhà nước bỗng nhớ đến công lao của bác đã đóng góp trong hai cuộc kháng chiến thần thánh! Bác vui viết :

Tết Bính Tý - Năm 1996 (Mượn câu của Hồ Yêm gửi anh Quách Tấn)
Hoa giáp một vòng thêm nhị giáp/Còn xuân mấy giáp cũng là xuân”

Hoa giáp một vòng thêm nhị giáp
Còn xuân mấy giáp cũng là xuân
Mình không Đông Quách
Không Nam Quách
Ai nhớ ? ghi công ? Chực xí phần
1996

Tết năm nay được nhà nước thưởng công tham gia hai cuộc kháng chiến thần thánh-Mình đã được bỏ quên suốt thời gian ở Miền Bắc (chống Mỹ) không ngờ nay cũng được chấm điểm thưởng công. Thật là đại hạnh cho tuổi già, khỏi tiếng “lão giã vô dụng”. (Cảm ơn Lưu bị)

Tôi không nguôi nhớ về bác. Bác có dáng làm quan, vậy mà đời bác sao hẩm hiu hết chỗ kể! Đến ngày cùng, tháng tận, bác vẫn chưa được trời ưu ái. Anh Quách Giao kể: “Đám tang chú Tạo thật thương tâm, chẳng ai đến viếng bác ngoài con cháu và ba đứa em của tôi còn ở lại Hà Nội. Bác thật cô đơn nơi đất khách quê người! tội lắm; không nơi đặt linh cữu, bác nằm tạm chân cầu thang chờ giấy khai tử!

Ôi! Giấy khai tử mà cũng thật nhiêu khê. Đến bốn nơi trước bác đã ở, chẳng nơi nào chịu nhận cho thi hài bác quàn tạm vài giờ, trước khi về với lòng đất. Sự nhiêu khê thiếu tình người của mấy ông Cán bộ Khu Phố, với lý do “không có tên trong Hộ khẩu ở đây”. Đến nơi này người ta bảo về nơi kia, nơi kia bảo quay lại nơi này. Vòng vo hết 4 nơi mà chỉ là con số O. Cuối cùng, con, cháu bác phải mua tạm chỗ ven đường của một nông dân tốt bụng ở Hà Đông, với điều kiện đến ngày sang tiểu phải “về quê”.

 Và tôi nghe, anh Quách Đạt đã đưa bác về quê ngay ngày sang tiểu!   

 Lâm Bích Thủy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét